Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 24/04/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Vị trí, vai trò của văn hóa, con người trong Nghị quyết 33-NQ/TW của Đảng

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, cùng với đường lối, quan điểm, nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng - Nhà nước ta cũng hết sức quan tâm đến yếu tố văn hóa, con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, coi văn hóa và nhân tố con người là nền tảng, là mục tiêu, động lực để phát triển bền vững xã hội. Từ Đề cương Văn hóa Việt Nam (1943) đến Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gần đây là Nghị quyết 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Đảng ta không ngừng kế thừa, bổ sung các quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp để xây dựng, phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Vị trí, vai trò của văn hóa ngày càng được nâng cao, được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, nhất là trong việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến Chân, Thiện, Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Văn hóa là biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng và vị thế, tầm vóc dân tộc. Thực tế đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển bền vững, cùng với việc dựa vào các “yếu tố cứng” như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, cơ sở vật chất,… thì cần phải biết tận dụng, khai thác “yếu tố mềm”, đó chính là nguồn lực con người với nhân cách văn hóa, trình độ khoa học, kỹ thuật, công nghệ, khả năng lao động sáng tạo. Nói cách khác, văn hóa là một “nguồn lực mềm” làm động lực và đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển và làm “hài hòa hóa” các mối quan hệ xã hội và “lành mạnh hóa” môi trường xã hội.

Từ đầu năm 1943, trước thời điểm Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Đề cương Văn hóa Việt Nam của Đảng lúc đó đã xác định khái niệm văn hóa bao gồm tư tưởng, học thuật (khoa học) và nghệ thuật (văn học, nghệ thuật), “văn hóa soi đường quốc dân đi”. Cũng vào năm 1943, trong những dòng ghi chép ở trang cuối của tập thơ Nhật ký trong tù, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Từ nhận thức ấy, Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm về văn hóa: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.

Hơn 40 năm sau, kể từ Đại hội VI (1986) đến các Đại hội VII, VIII, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết 05-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá VI) về Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa đã xác định: “Văn hóa là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa, là một động lực mạnh mẽ, đồng thời là mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII (1991) chỉ rõ: “Xã hội chúng ta xây dựng có một đặc trưng là có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về Một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt đã xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Đại hội VIII (1996) khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Mốc đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy về văn hoá của Đảng thể hiện ở Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là văn kiện mang tính “cương lĩnh” của Đảng về văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta quan niệm văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của đất nước ta đã có chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trước những biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phức tạp của đời sống trong nền kinh tế thị trường và bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hoạt động văn hóa cũng bộc lộ không ít bất cập, hạn chế, yếu kém; phương thức lãnh đạo chậm được đổi mới; chúng ta chưa lường hết tính phức tạp và những tác động của mặt trái kinh tế thị trường đối với đời sống văn hóa. Tuy xác định “văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội” nhưng trên thực tế, trong suy nghĩ, hành động, không ít tổ chức, cá nhân còn quá thiên lệch về kinh tế, coi nhẹ văn hóa. Văn hóa vô hình trung bị thu hẹp phạm vi và bị “hành chính hóa”, không còn là một phạm trù tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần. Xuất phát từ thực tiễn, Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ra Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 - 6 - 2014 về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Việc nhận thức sâu sắc nội hàm của văn hóa và vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cùng với việc kế thừa những giá trị của các văn kiện trước là cơ sở lý luận để Đảng ta bổ sung, phát triển các quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) vào Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI).

  Ở Nghị quyết Trung ương 9, sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, sự sáng tạo của Đảng trong việc nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa và việc xác định phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa, con người được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. 

Thực tế cho thấy, càng bước vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta càng phải tập trung nâng cao nguồn lực bên trong của dân tộc. Trong truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, nguồn lực này thể hiện tập trung ở tiềm lực vật chất và tiềm lực tinh thần của dân tộc; ở nhiều thời điểm lịch sử đặc biệt, tiềm lực tinh thần đã chuyển hóa thành tiềm lực vật chất, đóng vai trò quyết định thắng lợi của dân tộc. Mối quan hệ giữa tiềm lực vật chất và tiềm lực tinh thần là mối quan hệ biện chứng, thống nhất, không thể tách rời nhau, gắn bó với nhau. Chăm lo bảo vệ xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa là chăm lo bảo vệ, xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần của dân tộc, thống nhất ý chí và bản lĩnh của dân tộc, quyết tâm của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Quan điểm này đã kế thừa quan điểm thứ nhất nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” và xác định rõ việc phát triển kinh tế - xã hội không chỉ tăng trưởng nhanh mà còn phải đảm bảo sự bền vững. Thực tế, quan điểm phát triển bền vững đã được Đảng ta đưa ra tại Đại hội IX (2001), trong đó nêu rõ: “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”2. Tiếp đến, quan điểm phát triển bền vững cũng được khẳng định một lần nữa trong Báo cáo chính trị Đại hội X (2006), đó là: “Phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn”3 và tiếp tục được quán triệt sâu sắc trong Đại hội XI (2011) của Đảng. Vì vậy, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) đã sử dụng cụm từ phát triển bền vững đất nước trong quan điểm thứ nhất để thay thế cho cụm từ phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, Nghị quyết lần này đã tiếp thu luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí của văn hóa, đưa vào quan điểm thứ nhất để toàn Đảng, toàn dân thống nhất nhận thức trong tổ chức thực hiện, đó là văn hóa phải được đặt ngang hàng với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.

Thứ hai, Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

Quan điểm thứ hai và thứ ba của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đều xác định tính chất của nền văn hóa Việt Nam với các đặc tính: tiên tiến, dân tộc, thống nhất và đa dạng. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) ghi rõ “Nền văn hóa chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; “Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Do vậy, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) đã nhập hai quan điểm này làm một và bổ sung, làm rõ hơn đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa mà chúng ta xây dựng. 

Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là nền văn hóa mang tính dân chủ và nhân văn sâu sắc, tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, đây cũng là nền văn hóa hiện đại - hiện đại về nội dung, hình thức thể hiện cũng như hiện đại về cơ sở vật chất kỹ thuật để chuyển tải nội dung. Tính chất tiên tiến phải thống nhất hữu cơ với tính chất dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức của nền văn hóa, thống nhất giữa trình độ tư duy, cách cảm nhận, cách suy nghĩ, triết lý sống, ý chí và bản lĩnh, cốt cách, nhân cách, phẩm chất của nền văn hóa với hình thức biểu hiện bên ngoài của nó.

Hiện nay, hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị văn hóa mang các sắc thái khác nhau. Các giá trị và các sắc thái văn hóa đó bổ sung cho nhau, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam. Mặt khác, các thành tựu văn hóa của các dân tộc anh em góp phần củng cố sự thống nhất dân tộc - cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em. Sự thống nhất của nền văn hóa phải được thể hiện ở sự thống nhất về hệ tư tưởng chính trị, thống nhất về thể chế và thiết chế văn hóa. Đồng thời, phải phát huy tính đa dạng, cùng hợp tác và hỗ trợ nhau phát triển, chống các âm mưu lợi dụng sự khác biệt văn hóa để gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Ngoài ra, Nghị quyết lần này đã tiếp thu hai đặc trưng “dân tộc”, “khoa học” được nêu trong Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) của Đảng và đặc trưng “nhân văn”, “dân chủ” được thể hiện trong Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về văn học, nghệ thuật: “Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ” và trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ”4.

Thứ ba, Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

Đảng ta khẳng định: Văn hóa phải gắn với con người. Điều đó được thể hiện ngay ở tiêu đề Nghị quyết là Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Những Nghị quyết trước có nói đến con người nhưng còn rất mờ nhạt, chung chung. Con người trong Nghị quyết Trung ương 9 đã cụ thể hơn, rõ ràng hơn với đầy đủ những yêu cầu về phẩm chất, năng lực cần có của con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là điểm mới nổi bật của Nghị quyết lần này. Nếu như trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng mới chỉ dừng lại ở luận điểm “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, thì nay luận điểm mới của Đảng đã có sự mở rộng, gắn kết giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người. Xét cho cùng, xây dựng và phát triển nền văn hóa là nhằm mục tiêu phát triển con người toàn diện về trí, đức, thể, mỹ. Mặc khác, phẩm chất, trình độ, năng lực của con người trong xã hội là động lực phát triển bền vững đất nước. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta cũng đã thể hiện rõ tư duy mới về phát triển con người, xác định “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển”. Do đó, Nghị quyết Trung ương 9 lần này đưa ra một quan điểm mới về xây dựng con người trong mối tương quan với xây dựng và phát triển văn hóa; việc xây dựng và phát triển văn hóa phải hướng tới mục tiêu xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, coi đó là trọng tâm.

Thứ tư, Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.

Đây cũng là quan điểm mới được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI). Đảng ta xác định xây dựng môi trường văn hóa là coi trọng đầy đủ các thành tố văn hóa vật thể, văn hóa phi vật thể và nhân cách con người; đồng thời đã tiếp thu luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí của gia đình là hạt nhân của xã hội. Gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội, sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò của cộng đồng xã hội. Ngoài ra, quan điểm thứ tư cũng đặt rõ hơn mối quan hệ văn hóa với kinh tế. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh: “Văn hóa, văn nghệ không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”5, Nghị quyết Trung ương 9 tiếp tục khẳng định sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa và đưa thêm nội dung trong quan điểm này là việc “cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế” nhằm khắc phục tình trạng chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế, chạy theo lợi ích vật chất trước mắt, coi nhẹ hoặc bỏ qua các yếu tố văn hóa và con người.

Thứ năm, Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Quan điểm này xác định lực lượng, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa. Kế thừa nội dung quan điểm thứ tư trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) tiếp tục khẳng định, đồng thời bổ sung thêm vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò chủ thể sáng tạo văn hóa của nhân dân, tạo nên một chỉnh thể đầy đủ gồm các chủ thể cơ bản trong xã hội: Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Mọi người Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đều tham gia xây dựng và phát triển văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức là trụ cột để xây dựng và phát triển văn hóa, là lực lượng then chốt trong cách mạng khoa học kỹ thuật và văn hóa. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức để phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Có thể nói, năm quan điểm chỉ đạo của Đảng về văn hóa, con người được thể hiện trong Nghị quyết 33-NQ/TW của Trung ương (khóa XI) đã tiếp thu tối đa giá trị của các quan điểm nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), đồng thời bổ sung thêm một số quan điểm và nội dung mới để cụ thể hóa việc xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Các quan điểm này đã thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về văn hóa ở bình diện khái quát cao, bao quát được toàn bộ những vấn đề cốt lõi của việc phát triển văn hóa, xây dựng con người trong thời kỳ mới. Sự sáng tạo của Đảng không chỉ dừng lại ở việc nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn vị trí, vai trò của văn hóa, của con người trong sự nghiệp đổi mới mà còn thể hiện ở việc xác định rõ phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa, con người. Đây cũng là sự đúc kết lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào xác định quan điểm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giao lưu hội nhập với quốc tế và khu vực.

N.T.K

 

_______________

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.3, tr.431

2 GS.TS. Phan Ngọc Liên (Chủ biên): Biên niên sử các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách Khoa, H, 2006, t.2, tr.784.

3 GS.TS. Phan Ngọc Liên (Chủ biên): Biên niên sử các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách Khoa, H, 2006, t.2, tr. 959.

4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, H, 2011, tr.75

5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995, t.7, tr. 223

 

 

NGUYỄN THẾ KỶ
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 257

Mới nhất

Long trọng tổ chức Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam

19/04/2024 lúc 17:46

Sáng nay 19/4/2024, Trường PTDT Nội Trú Gio Linh long trọng tổ chức Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Hội Liên hiệp Phụ nữ Phường 1 ra mắt mô hình “Phụ nữ, Cà phê và Sách”

19/04/2024 lúc 16:43

Sáng nay 19/4, Hội Liên hiệp Phụ nữ Phường 1 (thành phố Đông Hà) tổ chức Lễ ra mắt mô hình “Phụ nữ,

Sôi nổi hội thi Kể chuyện theo sách với chủ đề “Chúng em yêu hòa bình”

12/04/2024 lúc 16:01

Ngày 11/4, Thư viện tỉnh Quảng Trị phối hợp với Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Đông Hà tổ chức hội

Khai mạc Ngày sách và Văn hóa đọc Việt Nam tỉnh Quảng Trị năm 2024

11/04/2024 lúc 00:52

TCCV Online - Sáng nay 10/4, tại Thư viện tỉnh, UBND tỉnh Quảng Trị tổ chức khai mạc Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam năm 2024. Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh Nguyễn Chiến Thắng; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoàng Nam tham dự.

Lễ phát động Cuộc thi Đại sứ Văn hóa đọc tỉnh Quảng Trị năm 2024

09/04/2024 lúc 17:57

TCCV Online - Sáng ngày 9/4/2024, tại thư viện tỉnh Quảng Trị đã diễn ra lễ phát động Cuộc thi Đại sứ Văn hóa đọc tỉnh Quảng Trị năm 2024.

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

25/04

25° - 27°

Mưa

26/04

24° - 26°

Mưa

27/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground