Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 26/04/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Lời của sóng*

Biển là một không gian bao la, nơi nuôi dưỡng, tạo nguồn, lưu giữ các nền văn hóa cho mỗi thời đại. Việt Nam là một quốc gia biển, nên nó còn là một phần lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc, là “đường link” kết nối, giao thoa với thế giới. Trong bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng, biển đảo như là một chủ đề, một dòng chảy. Thơ Hữu Thỉnh đóng góp sự đột phá, góp sức khơi thông dòng chảy chung đó.

Trong chiến tranh chống Mỹ, trên đường đi vào chiến trường, nhiều lần qua khu Bốn, vượt đèo Ngang, Hữu Thỉnh có rất nhiều bài ghi chép, nhiều bài thơ về biển. Do đó, Đường tới thành phố - một trường ca viết về chiến dịch Hồ Chí Minh, anh đã dành trọn phần Hồi âm - kết thúc của trường ca với gần 70 câu thơ để nói về biển, đảo. Nhiều lần tôi cứ tự hỏi vì sao một trường ca viết về chiến dịch Hồ Chí Minh lại không kết thúc ở Sài Gòn mà lại kết thúc ở đảo? Tôi tìm hiểu và được biết: Về lịch sử mà nói, đồng thời với chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn, Bộ Tổng tư lệnh điều một đoàn tàu ra giải phóng các đảo. Cuộc chiến tranh giải phóng Đất nước chúng ta chỉ có ý nghĩa thực sự trọn vẹn khi hoàn thành việc cùng với giải phóng đất liền là giải phóng được các đảo, giang sơn thu về một mối. Chính vì thế, Hữu Thỉnh có lý khi để một kết thúc mở cho trường ca Đường tới thành phố. Đó cũng là bước chuẩn bị có tính tiền đề cho những nỗ lực sáng tạo về sau của anh.

Hữu Thỉnh cũng đã nhiều lần đi thực tế ở một số tuyến đảo phía Bắc (dù rằng anh chưa có dịp đến Trường Sa, Hoàng Sa do điều kiện khó khăn lúc bấy giờ), và anh đã gặt hái được nhiều thành quả. Một chùm thơ viết về đảo như Gởi từ đảo nhỏ, Tiếng gà trên đảo, Biển nỗi nhớ và em… mang đến cho bạn đọc những hy vọng về bút lực, về những khám phá mới của anh trong tương lai.

Biển vắng cỏ non vẫn biết mùa xuân đến

Khi trông bờ ngắm một lá thư thăm

Biển xanh quá ước gì anh gói được

Nhờ con tàu bè bạn đến tay em.

(Gửi từ đảo nhỏ)

Hay:

Ai mang quê ra đảo

Ló một tiếng gà trưa

Bao nhiêu là súng pháo

Ngây thơ như cày bừa.

(Tiếng gà trên đảo)

Hay:

Anh xa em

Trăng cũng lẻ

Mặt trời cũng lẻ

Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn.

(Biển nỗi nhớ và em)

Đáng chú ý cũng trong thời gian này, Hữu Thỉnh viết bài Phan Thiết có anh tôi. Đây là một trong những bài thơ hay nhất của anh lúc bấy giờ. Bài thơ không phải viết riêng cảm xúc về biển, nhưng tất cả những câu thơ về biển có trong bài đều làm ta rung động và cũng chính nó như một liều thuốc phóng đưa bài thơ đi xa.

Chính ở đây anh thấy biển lần đầu

Qua cửa hầm

Sau những ngày vượt dốc

Biển thì rộng căn hầm quá chật

Khẽ trở mình cát đổ trắng hai vai.

Hay:

Biển ùa ra xoắn lấy mọi người

Vì yêu biển mà họ thành sơ hở

Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ

Mặt anh còn cách nước một vài gang.

Tất cả những bài thơ đó là chất liệu vật chất, là sự chuẩn bị để anh viết Trường ca Biển. Sau Trường ca Biển anh còn viết thêm một loạt bài thơ nữa về biển như: Cát thở, Cù lao Chàm, Căn hộ biển… Viết về biển là một hợp âm với điệp trùng sóng vỡ, đa thanh, đa sắc sống động của Hữu Thỉnh, một vệt chói sáng song song với thơ viết về đất liền, trong cuộc chiến tranh giải phóng Đất nước của hành trình thơ anh. Hữu Thỉnh là người viết về biển sớm (không nói là sớm nhất) và có nhiều thành tựu, trong đó trường ca: Trường ca Biển được giải nhất Bộ Quốc phòng năm 1994 và giải thưởng Hồ Chí Minh.

Chương một: Dốc biển là cuộc đối thoại giữa một bên là người lính một bên là biển. Nói đúng hơn đấy là cuộc đối thoại giữa dân tộc Việt Nam sau chiến thắng 30/4 giải phóng hoàn toàn miền Nam với vùng biển thân yêu của Tổ quốc. Những suy tư được đặt ra, những hiện thực được lý giải, những bài học được đúc kết sau cơn say chiến thắng. Đó là những thách thức (dốc biển) mà dân tộc phải đối diện, nó cũng không kém phần khốc liệt như bất cứ một thứ “dốc” nào dân tộc đã trải qua trong quá khứ trên đất liền. Cũng chính từ đó giúp chúng ta bình tĩnh lại sau những khó khăn chồng chất thời kỳ hậu chiến để kịp thời đề ra những đối sách thích hợp vượt qua thách thức.

- Mẹ dặn tôi: Ra sông lấy sóng mà yêu

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin

Tôi đã tin và chưa hề bị ngã

Biển nói:

- Không ngã chưa chắc đã khỏi chìm

Người lính nói:

- Có bí quyết gì sau lớp sóng kia chăng?

Biển nói:

- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.

“Sống với nước hãy bắt đầu từ nước”. Nước giờ đây không đơn thuần là nước sông, nước biển,… mà nước là Đất nước, là Tổ quốc, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như một triết luận, một sự cảnh tỉnh, một sự tỉnh ngộ sau những éo le, dang dở, cay đắng mà dân tộc đã trải qua trên con đường vươn ra biển lớn:

Người lính nói:

- Bao vốn liếng cả một đời góp nhặt

Bước xuống tàu bỗng thành kẻ tay không?

Biển nói:

- Những chiếc huân chương còn soi sáng trên bờ

Sống với nước hãy bắt đầu từ nước.

Chương hai: Cát là một chương thú vị. Cát được nhân cách hóa thành người đồng hành có cùng số phận người lính đảo với đầy đủ những éo le, ngang trái cùng sức chịu đựng phi thường. Vẫn thấy bóng dáng cách lập ngôn, lập tứ, cách tạo dựng những cung bậc cảm xúc của Đường tới thành phố, nhưng những nghiền ngẫm thế cuộc sâu hơn, thấm đẫm hơn; câu thơ được âm thầm làm mới bằng nỗ lực của một con người không chịu thỏa mãn, không chịu bằng lòng với những gì đã có. Nếu thái độ của người lính khi nghĩ về Tổ quốc trong Đường tới thành phố“Trời ơi, nếu kẻ thù chiếm được / Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn / Tổ quốc sẽ ra sao?Tổ quốc? / Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim”, thì trong Trường ca Biển cách nói chừng như gọn hơn, ám ảnh hơn, mới hơn: “Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình / Đảo có lính cát non thành Tổ quốc”.

Lấy “cát” làm chủ thể, “Cát ở đây là tất cả”, cát hiển hiện trong không cùng, trong số phận người lính: “Không có chỗ nào không có cát / Không có điều gì không có cát” “Chúng tôi vốc cát lên / Chúng tôi nghe cát nói”. Người lính sống cùng cát, ăn nằm cùng cát, lấp đầy cùng cát. Người lính và cát, cát và người lính nhào trộn vào nhau làm nên gương mặt đảo:

Chúng tôi lại cùng nhau bới cát

Chôn anh thêm một lần

Cát và cát

Ngày ngày lại mới

Cát và cát

Ngày ngày lại trắng

Trắng như bàn tay trắng chúng tôi

Úp lên số phận bạn mình.

Chương ba: Tự thuật của người lính. Với vốn kiến thức và những hiểu biết sâu sắc được tích lũy có hệ thống từ những năm tháng sống ở nông thôn và trong đời lính, Hữu Thỉnh đã “thao lược” tài tình và đầy hiệu quả trên những trang viết thật sự cảm động, có khả năng gây ám ảnh cao. Cũng thấy đâu đó bóng dáng người lính trong Đường tới thành phố năm nào: “Chúng tôi chưa bao giờ yên tĩnh / Đi như sông hiếu động như rừng / Đã để lại thảnh thơi cho cỏ / Và nhận về giông bão trên lưng”, nhưng người lính đảo thời bình có gì đó mang nhiều ngổn ngang, nhiều suy tư hơn:

Cơn lốc đen đánh úp lá bàng

Tôi cảm thấy mùa thu đang mất máu

Một chút lửa hoa dong riềng cuối dậu

Sợ một ngày sương muối đến đem đi.

Người lính ra đi từ làng, mang theo tất cả những gì làng có vào quân ngũ. Hữu Thỉnh sinh ra và lớn lên từ làng quê, hơn ai hết anh am hiểu nó vừa cặn kẽ, vừa tinh tế. Những câu thơ của anh thấm đẫm hồn vía ca dao tục ngữ, vừa hồn nhiên vừa xa xót:

Con mang về con bống của mẹ đây

Từ những ao chum nghìn xưa để lại.

Hay:

Con đi mót gặp toàn gốc rạ

Chiếc nón mê tha thủi giữa đồng.

Hay:

Cha đi vắng tôi trèo lên cây ổi

Cây ổi cho một búp sâu kèn

Và cứ thế với sâu kèn tôi hát

Cố tin rằng tôi không bị bỏ quên.

Và đôi khi sắc lẻm, làm bao con tim “rớm máu”:

Không ai nói với tôi rằng hoa bưởi sắp tàn

Chiều chỉ có một mình chim gõ kiến

Hoa sim tím quả sim cũng tím

Đồi treo đầy những túi mật trung du.

Tôi có cảm tưởng mỗi lần Hữu Thỉnh viết về quê, thơ anh như “vòi sen được mở” ào ào tuôn chảy, dào dạt tuôn chảy: “Trứng ốc nhồi nở trắng dọc bờ ao / Con ếch sọc dưa đi tìm tức tưởi”, “Tôi lớn lên / Vó ngựa giật mình đôi sấu đá / Gươm giáo hai hàng quan võ quan văn / Ông nhịn mặc để ăn / Ông nhịn ăn để mặc / Người đói và người rét / Sơn son và thếp vàng”, “Tôi lớn lên / Có người thắt cổ sau chùa / Không ai kịp khóc /…/ Cây phướn sầu trên mặt đất hoang mang / Hồn chị nhập vào hoành phi câu đối / Nhìn xuống bữa tiệc tàn / Từ nay chúng nó toàn vận rủi / Sập chân quỳ một chiếc huyệt đào ngang”…v.v…, đọc câu nào cũng hay, cũng gợi, cũng gần gũi, cũng thẳm sâu với đầy đủ hương vị, màu sắc không đoán định được:

Cá rô rạch ngược mưa rào

Hám gì bỏ nước cầu ao vào lờ.

Ở chương bốnĐất này. Đó là câu chuyện mở cõi, tiếp đất ra đảo, xây chắn “phên dậu”, định dạng hình hài Tổ quốc:

Đất đi qua biển thì mau

Người đi qua nỗi khổ đau thì dài.

Tổ quốc hiện lên thật gần gũi, thân thuộc, thật máu thịt. Cũng như đất liền, đảo có mọi thứ từ “lề thói” đến cây cối, hội hè có Lan, có Trúc mà nên xóm nên làng. Những câu thơ như phù thủy dồn nhịp, ngây ngất! Ta như được sóng miên man đẩy đi vô tận rồi ào ạt trở về trên cát mịn:

Luống hành hoa đội rạ đứng lay phay

Người tứ phương tụ hội về đây

Cắm cọc treo nồi

Đóng đinh móc rế

Trồng mùa thu bằng cây thị

Thả mùa hè bằng ngó sen

Cây lan có tên cho cô Lan có tên

Cây trúc có tên cho cô Trúc có tên

Lan và Trúc say lòng những chàng trai mới lớn

Lan và Trúc tiễn bao người ra trận

Và chiều nay cha gửi đất cho con

Đảo không đơn độc, đất liền với đảo là một. Hữu Thỉnh sẽ rất thiếu sót khi viết Trường Sa chỉ cho người ta biết về Trường Sa, mà cùng lúc đó ở phía sau lưng kia, ở phía hậu phương xa thẳm kia là cuộc sống ở đất liền, là số phận những người ở đất liền. Vẫn là cách nói sắc lẻm, chặt chẽ “Đất chẳng bao giờ héo / Trời thăm thẳm không mòn / Khi vui chán vạn khi buồn một ta”, Trường ca Biển lại bung tỏa sang một chiều cảm nhận khác. Đó là công cuộc củng cố bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc mà “Không có đất không thể nào sống được”, và định hình như một chân lý khi đến với đảo:

Đất đi đến đâu quê hương theo đến đấy

Quê hương đi đến đâu máu đi theo đến đấy

Máu chẳng bao giờ cũ

Cuốc cuốc cứ kêu hoài.

Chương năm: Hóa thạch những dòng sông, là chương chất chứa nhiều sáng tạo của Hữu Thỉnh, anh quan sát và suy ngẫm với nhiều chiều kích, biến hóa trong tự tại, có nhiều cách nói mới lạ. Viết về sông mà như viết về một đời người vậy: “Những dòng sông quờ quạng tìm nhau / Dưới đáy biển / Những dòng sông chết / Biển âm u đáy huyệt / Hồn sông đi lang thang” “Sông góp củi cho nồi cơm lớn / Lòng vị tha là người khách sau cùng” “Sông đi sông đi vật vờ sông đi / Tìm lại mình trong biển / Biển nói bằng muối chát / Sông không nghe được gì”… Sông có tất cả những gì thuộc về con người, sông như con người “Sinh ra sông để đem cho”:

Ta bới sóng đi tìm các dòng sông

Gặp cái chao chân khi em mười tám tuổi

Ta đi vớt tiếng sáo diều đắm đuối

Thúc ba hồi trống quân.

Hay:

Ta bới sóng đi tìm các dòng sông

Thấy cau bỏ già

Trầu không để úa

Yêu nhau không lấy được nhau.

Hay:

Ta bới sóng đã lâu

Tìm thấy sông hóa kén

Và đó là tất cả những gì thuộc về “gia tài” của sông đem cho khi gặp biển cuối cùng. Một cuộc hóa thân vào biển “Trọn vẹn huy hoàng như cho thơ”, và “Khi không còn thứ gì để cho, sông như tráng sỹ không còn vũ khí, giáo chủ không còn mật kinh, võ sư không còn bí quyết, sông như nghệ sỹ đã sắm xong vai, một kẻ trắng tay giàu có đo mình bằng kích thước của biển”. Nhìn ra biển để thấu hiểu tận cùng sông cũng là cách nhìn vào nguồn cội của dân tộc mà hiểu tận cùng số phận từng con dân. Đó cũng là cách như sông trao mình cho mênh mông biển:

Sông trao mình cho biển

Như cây trao bóng cho rừng

Về biển thì hết sông

Không về thì không được.

Đó cũng là cách ứng xử đối với biển đảo như cách ứng xử với độc lập, tự do của dân tộc Việt.

Chương sáu, chương cuối cùng của Trường ca Biển được Hữu Thỉnh đặt tên: Bão biển. Có lẽ sau những gì xảy ra ở Cô Lin, Gạc Ma,… báo động cho toàn thể dân tộc Việt nguy cơ về một cơn “bão biển” đang tới gần, gặm nhấm bờ cõi, biển đảo của chúng ta; mưu toan xóa sạch ý chí độc lập tự do, thay đổi biên giới quốc gia của chúng ta:

Bão vò cây gào rít điên cuồng

Tóc của bão là lá cây rách tướp

Tay của bão là sóng thần rợn ngợp

Cả đất trời say sóng ở Trường Sa

Trong bão gió chúng tôi đo Tổ quốc

Bằng đôi tay vượt biển lính xa nhà.

Cuộc đối mặt trước bão là cuộc đối mặt sinh tử, một mất một còn, người lính nói riêng và dân tộc Việt nói chung không có quyền lựa chọn, không cho phép lưỡng lự, không còn chỗ cho sự tháo lui:

Bão bức anh khỏi đảo

Như chiếc đinh bật khỏi con tàu.

….

Như triệu năm quyết liệt quay về

Tìm lại đảo

Một chỗ đứng, một tên gọi

Cả vũ trụ so găng đấu với một mình anh

Nghìn cái chết kéo co với sinh linh bé nhỏ

Tất cả những gì chưa sống nói với anh không thể chết

Tất cả những gì đã chết nói với anh phải sống.

Hữu Thỉnh đã viết chương sáu để kết thúc Trường ca Biển với giọng thơ bi tráng nhất, nhưng cũng oai hùng nhất, khí phách nhất, đó cũng là việc mà cả dân tộc phải làm trước lịch sử:

Bao hiểm nguy con xin lại bắt đầu

Con xin lại bắt đầu từ lời ru trong suốt

Ra sông lấy sóng mà yêu

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin

Con lại lao ra biển

Một chiếc phao thoi thóp bơi đi…

Trường ca Biển có sáu chương. Từ chương một đến chương năm, kết thúc mỗi chương đều có một phần: Lời sóng, là những khúc ru, những tâm sự bát ngát được mở ra với những âm hưởng khác nhau. Ở đây, không phải chỉ ru cho vong hồn những người lính đã chết mà cho cả số phận những người lính còn sống; không phải ru cho người lính xa nhà mà cho cả những người ở hậu phương; không phải chỉ ru cho cái hữu hạn mà ru cho cả những cái vô hình; nó như ngàn lớp sóng vỗ ập òa đập vào vách đảo ngân vang với bao số phận cùng chung số phận với dân tộc. Đó cũng là một dấu ấn của sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo, làm mới thơ mà Hữu Thỉnh đem đến cho mỗi chúng ta.

Tôi đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần Lời sóng, cố hiểu thấu đáo xem Hữu Thỉnh muốn nói gì? Có lặp lại Đất ru (trong Đường tới thành phố) của chính mình không? Càng đọc, tôi càng khám phá rằng: Lời sóng là nơi đậm đặc những sáng tạo, làm mới thơ của Hữu Thỉnh từ cấu trúc đến ngôn ngữ diễn đạt. Trường ca Biển có 5 Lời sóng, nếu tách riêng từng lời từ 1 đến 5, rồi tập hợp chúng lại với nhau ta có một trường ca hoàn chỉnh với tên: Lời sóng. Đây là một dạng trường ca trong trường ca, có cấu trúc đan quyện, đôn nhau bởi nhiều tầng “sóng cảm xúc” đã có và mới có. Ở đây, ta nghe rất rõ âm thanh trầm hùng của sóng, sự ngọt ngào lắng mặn của biển; những tâm tư của đảo, của đất liền. Thơ biến ảo một cách khôn lường trong sự đa dạng và giàu có về ngữ nghĩa, nó không còn đơn giản chỉ là những câu lục bát uyển chuyển - Cảm xúc bung nở, xếp lớp, hiện đại trong thế “quy cố nhân”.

Ở Lời sóng 1, với cấu trúc mỗi khổ 2 câu thể 5 chữ (ngũ ngôn). Biển của thi ca hiện lên với vô vàn lớp sóng ào ạt, nhưng thật êm đềm, bình lặng của những câu chuyện, những truyền thuyết lãng mạn, những giai điệu du dương về tình yêu đôi lứa, về thú vui biển cả, trí tưởng tượng.

Có bao người con gái

Đến thăm nàng vọng phu.

 

Biển thành nắng thành mưa

Của đất liền vòi vọi.

 

Biển thành đêm thành ngày

Nồng nàn trên gối cưới.

Và cả những giấc mơ táo bạo, vươn xa của sức trẻ trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của đất liền:

Em muốn đêm tóc xanh

Buộc đời cho đỡ bão.

Sang Lời sóng 2, cấu trúc thơ đột biến khác thường, không còn tuân theo quy luật. Trật tự cũ bị phá, nhiều thể loại thơ được sử dụng cùng lúc trong sự xoáy trào của tư duy, nhiều thử nghiệm mới được thể nghiệm. Những cố gắng làm mới thơ của Hữu Thỉnh đã mang lại kết quả thật lạ lùng: Cảm xúc khuất, lộ ẩn hiện tinh vi, lay động hơn, tinh tế hơn bằng trật tự ngôn ngữ được sắp đặt lôgíc, tài hoa:

Trời còn bao nhiêu thu (năm chữ)

Tóc chị thắm làm thót lòng nội ngoại. (tám chữ)

Hay:

Chị tôi đi thửa hương vòng (sáu chữ)

Ngậm ngùi trên mộ cũ. (năm chữ)

Ngay cả khi Hữu Thỉnh sử dụng thể thơ truyền thống thì cũng không còn như Đất ru thoảng lặng, tê tái mà mạch lạc, quánh đặc hơn, tốc độ hơn, hiện đại hơn.

Hôm nay lúa lại nhen đòng

Chim bay ngược bão hoa trong thiếp mời

Hôm nay tái giá chị tôi

Liền anh cùng với bao người đứng trông.

Và chỉ bằng một câu thơ kết thúc Lời sóng 2 với hai vế không mới, rời rạc “cháu ở lại cùng bà” và “bống bống bang bang”, được một Hữu Thỉnh thấm đẫm dân ca khéo léo kết hợp lại với nhau, “bống bống bang bang” bỗng như được “vén mây, tẩy trần” trở nên bao la - câu thơ lạ, ám ảnh, rực chói một cách lạ lùng, khả năng khơi gợi đến vô tận về một câu chuyện bi tráng giữa thời bình, vừa xa xót vừa đậm đặc nhân văn:

Cháu ở lại cùng bà bống bống bang bang

Chuyện chị tái giá - cuộc sống tiếp diễn cần phải khâu vá lại. Nó vừa vui lại vừa buồn “chim bay ngược bão”! Cũng là việc để lại đứa con nhỏ “cháu ở lại cùng bà”, là tiếng khóc chông chênh khát mẹ, là lời ru khàn giọng vỗ về “bống bống bang bang” của bà, lúc bổng lúc trầm, lúc thưa lúc mau, vọng đến từ căn nhà tre ba gian giữa trưa hè cháy nắng. Bão thời bình đấy! Chao ôi, ai bảo bão thời bình không nghiệt ngã - cân bằng được vai này thì chao đảo vai kia, dẹp gọn được ngổn ngang này thì ngổn ngang khác bày ra. Hữu Thỉnh lách vào mọi ngóc ngách đời sống, số phận con người để tìm đến bao dung, Hữu Thỉnh làm mới thơ từ những cái đã cũ, Hữu Thỉnh bay lên từ ngổn ngang những tìm tòi, khám phá… Một cuộc cách tân thơ đầy ngẫu hứng và sáng tạo của Hữu Thỉnh làm sao có thể không say.

Lời sóng 3, là khúc ru Hữu Thỉnh dành nói về chủ quyền biển đảo, chủ quyền đất nước, về tiếng Việt giữa biển khơi xa. Nó là cái gì đó thật thiêng liêng, thật gần gũi, có giá trị lịch sử, giá trị pháp lý, được đo bằng mồ hôi và máu của bao thế hệ cha ông tôn tạo mà có. Nó không phải thứ chủ quyền của những kẻ ăn cướp thường rêu rao kéo theo “màu cờ nhếch nhác”:

Búi tóc dõi chân trời

Đùm nhau qua đói khát

Be bờ và đắp đập

Nước Việt ngoài khơi xa

Đan cài trong thể thơ năm chữ (ngũ ngôn), đôi chỗ biến thể ngắt nhịp theo sự “quẫy đạp” của cảm xúc, Hữu Thỉnh thông qua người lính mang đến những suy tư về gốc rễ, nguồn cội; về quá khứ và hiện tại; về quan hệ giữa biển đảo và đất liền; giữa người trước và người sau,… Nhịp thơ đôi lúc biến hóa phá vỡ luật lệ, như lớp lớp sóng liên hồi vỗ vào tâm thức mỗi con dân Việt. Nếu Lời sóng 1 Hữu Thỉnh dùng thể thơ ngũ ngôn khổ 2 câu, thì Lời sóng 3 hầu như cũng thể ngũ ngôn đó nhưng khổ 4 câu, làm tăng hiệu quả chiều sâu suy tư bởi đặc trưng vốn có của thể loại thơ này mang lại: “Nồng nã những cơn mưa / Mang hồn năm tháng cũ / Người trước bỗng hiện về / Qua mảnh sành mảnh sứ” “Cổ nhân còn đâu đây / Như vừa ăn dở bữa / Giáo mác quắt đêm thần / Nhớ nhà ngồi khâu vá” “Cổ nhân vẫn còn đây / Máu chưa lành vết chém / Mồ hôi vẫn còn đây / Còn mặn hơn biển mặn”…, nó vừa là lời ru, lời tâm sự lắng kết, thầm thì, vọng nhớ, vừa như nhắc nhở nhau về lịch sử, về trách nhiệm của các thế hệ tiếp nối để “Tổ quốc tròn tên”:

Nổi chìm bao kiếp người

Qua tháng năm sứt mẻ

Cho Tổ quốc tròn tên

Việt Nam

Hai tiếng Mẹ.

Cảm xúc nhớ nhà của người lính trẻ Trường Sơn năm xưa giữa hun hút đại ngàn - Cái cô đơn thăm thẳm trong phút lặng yên giữa hai trận đánh “Mấy đứa nhớ nhà ngắt ngọn tàu bay” (Đường tới thành phố), dẫu “bần thần”, da diết, khắc nghiệt đến bao nhiêu, người lính Trường Sơn vẫn còn có rừng gần gũi làm điểm tựa, làm phên giậu che chắn, bao bọc mà hy vọng ngày về “Đường chẳng còn dài như vốn nó từng dài / Suối cứ đổ trong bình minh nõn chuối” (Đường tới thành phố). Còn người lính đảo thời bình dẫu sự sống và cái chết không diễn ra một cách thường trực, những cũng không kém phần khắc nghiệt. Họ nhỏ bé, cô đơn, trơ trọi giữa biển khơi bao la. Họ không biết lấy gì làm điểm tựa, bao bọc, chở che để chống đỡ bão tố và cô độc ngoài tình thương yêu đồng đội, nỗi nhớ nhà làm phên giậu cho hy vọng đoàn viên:

Trên bãi cát những người lính đảo

Ngồi ghép nhau bao nỗi nhớ nhà

Chiếc áo rộng vài vạt mây hờ hững

Họ cứ ngồi như chum vại hứng mưa

Người sống cô đơn là thế, người chết cũng không kém phần hiu hắt:

Đảo tái cát

Khóc oan hồn trôi dạt

Tao loạn thời bình

Gió thắt ngang cây

Và kết thúc Lời sóng 4, bằng lời ru lục bát quen thuộc, Hữu Thỉnh đưa ta về trong thế “quy cố nhân” sau những giằng xé, vật vã thế sự:

À ơi tình cũ nghẹn lời

Tham vàng bỏ ngãi kiếp người mong manh

Lời sóng 5 như một tự thoại, một lá thư, một chút tâm tình giữa người lính đảo với người yêu, người vợ; giữa chị và em; giữa người lính với hậu phương; giữa đảo với đất liền; giữa quá khứ và hiện tại; giữa cá nhân và thời cuộc; giữa những vô vi và những lớn lao… Đó là những số phận hóa thạch, là đất cho đảo, là dư vị làm nên cuộc sống:

Lá đa vắng anh thành chú mèo tam thể

Chú mèo khôn từ thuở lên ba

Dạy con anh

Lúc lên đèn

Không nhìn sang hàng xóm.

Và lá cờ Tổ quốc được anh phất cao, vút lên như “Phất một lá diều” trong nỗi nhớ con, nhớ em, nhớ đất liền… mà làm nên nền móng đảo, giúp đảo trụ vững trước mọi sóng gió cuồng phong. Đảo gần gũi với đất liền, đảo là đất đai của mẹ Tổ quốc. Câu thơ bay lên theo “ba tầng sáo” hóa thạch những dòng sông :

Anh nhớ con anh phất một lá diều

Ba tầng sáo chắc đất liền nghe thấy

Những ô cửa xin đừng khép vội

Đảo nói gì thao thiết giữa không trung

 

Tiếng sáo diều làm biển bớt mênh mông

Vầng trăng đứng

Tự nghe mình

Lặng lẽ…

Gấp lại Trường ca Biển, tôi vẫn nghe đâu đó tiếng của những người lính gọi nhau trong mịt mù bão cát: “Song Tử đâu? Nam Yến đâu? Sinh Tồn đâu?...”, đó phải chăng là cuộc gọi tập hợp lực lượng của cả một dân tộc trước hiểm họa. Hữu Thỉnh không những mang đến cho thơ sự bứt phá, những tìm tòi, sáng tạo vô giá mà chính anh còn tạo dựng, bồi đắp một đức tin cho mỗi con dân Việt, giúp họ trụ vững trước mọi sóng gió, mưu toan thâm độc của kẻ thù.

L.Q.S

____________________

* Đọc “Trường ca Biển” của Hữu Thỉnh - Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, năm 2004.

Lê Quang Sinh
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 284 tháng 05/2018

Mới nhất

Giường sắt có tốt không? Địa chỉ mua giường sắt uy tín?

24/04/2024 lúc 23:00

Giường sắt là một trong những đồ dùng nội thất không thể thiếu trong mỗi căn nhà, để đảm bảo cho gia chủ có một nơi nghỉ ngơi sau ngày dài mệt mỏi. Ngày nay, giường sắt đang khá phổ biến trên thị trường. Nếu bạn đang tìm hiểu về loại giường này và muốn tìm cho mình một địa chỉ mua giường sắt uy tín và chất lượng hiện nay thì đừng bỏ qua bài viết dưới đây của Công Ty Cổ Phần Nội Thất Đại Thành.

Chùm thơ Trần Đức Tín

24/04/2024 lúc 17:21

Nhà thơ Trần Đức Tín, bút danh Khét, sinh năm 1989, quê quán Cà Mau, hiện đang làm

Long trọng tổ chức Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam

19/04/2024 lúc 17:46

Sáng nay 19/4/2024, Trường PTDT Nội Trú Gio Linh long trọng tổ chức Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Hội Liên hiệp Phụ nữ Phường 1 ra mắt mô hình “Phụ nữ, Cà phê và Sách”

19/04/2024 lúc 16:43

Sáng nay 19/4, Hội Liên hiệp Phụ nữ Phường 1 (thành phố Đông Hà) tổ chức Lễ ra mắt mô hình “Phụ nữ,

Sôi nổi hội thi Kể chuyện theo sách với chủ đề “Chúng em yêu hòa bình”

12/04/2024 lúc 16:01

Ngày 11/4, Thư viện tỉnh Quảng Trị phối hợp với Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Đông Hà tổ chức hội

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

27/04

25° - 27°

Mưa

28/04

24° - 26°

Mưa

29/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground