Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 09/11/2025 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Bút ký

Phóng sự ảnh

Hơn cả nỗi đau

28/01/2025 lúc 23:02






“T





ôi nhớ”, ngày 10 - 8 - 1961, khi chiếc máy bay trực thăng H34 của không lực Hoa Kỳ thực hiện chuyến bay rải chất độc khai quang đầu tiên dọc theo quốc lộ 14 từ Kon Tum lên Đắc Tô bắt đầu cuộc chiến tranh hoá học dã man bậc nhất trong lịch sử nhân loại với mật danh “Ranch Hand”; cho tới khi kết thúc năm 1971, đã có khoảng 20 triệu gallon cũng như nhiều chất diệt cỏ dội lên “đầu” Việt Nam, tương đương với khoảng 170 kg đioxin - loại chất độc mà chỉ cần một muỗng cà phê cũng có thể giết hàng triệu dân thường. Điôxin, nó đe dọa trực tiếp đến sự sống của mỗi loài động vật khi gần 150.000 ha diện tích rừng bị tàn phá. Là vùng rừng dày đặc, Quảng Trị sớm trở thành một trọng điểm trong kế hoạch thiết lập “vành đai trắng” của giặc. Khoảng 15.000 nạn nhân, trong đó gần 2.000 người chết do nhiễm độc quá nặng. Có hơn 1.500 ha rừng, hoa màu thời đó đã bị chết do chất độc từ máy bay Mỹ thả xuống, chủ yếu tập trung vào hai xã Cam Chính, Cam Nghĩa thuộc huyện Cam Lộ ngày nay… Những cánh rừng nối tiếp bám rễ vào đất như muốn hút hết chất độc còn lại để con người được nằm xuống yên bình, mà chẳng được. Rồi lớp lớp người từ chiến trường xưa kia bị nhiễm độc trở về, dẫu có “tích đức” hàng chục vạn năm vẫn không nắm lại được hình người của họ, của con họ, cháu họ và… đó là đỉnh cao, cũng là tận cùng của di chứng tội ác...

Đường xa

28/01/2025 lúc 23:02







C





huyến đi châu Âu vừa qua tôi đã dừng chân ở lại Vác-sa-va mươi ngày để làm lữ khách của cộng đồng người Việt sinh sống tại đó. Chả là tôi vẫn thường mong mỏi có một dịp như thế.
Các anh trong “Sứ” xếp sắp tôi về nghĩ chỗ anh Quán, tính thế là ý tứ lắm, vì họ đều biết hai chúng tôi là bạn cũ đã nhiều năm, Quán giờ lại đang là cán bộ đối ngoại phụ trách công tác người Việt ở nước ngoài.
Một căn hộ khiêm tốn trong một chung cư khiêm tốn do Sứ quán ta đứng ra thuê lâu dài. Ngành ngoại giao cứ vài năm lại một lần luân chuyển cán bộ, người về kẻ đến, chỉ ngôi nhà là vẫn đứng đó, xem chừng ngày một già nua. Tôi để ý mấy vòi nước trong nhà cái thì khô rang cái lại tong tỏng chảy, nắm giẻ băng bó quanh nó lúc nào cũng sũng ướt. Nhà có hai buồng ngủ, một buồng của Quán còn buồng kia dành cho cháu Tố Uyên là con gái anh, thời gian này con bé đang vùi đầu vào làm luận văn tốt nghiệp cử nhân kinh tế Đại học Vác-sa-va. Trong tình thế ấy tôi tất nhiên chỉ còn cách chiếm lĩnh phòng khách. Nước nôi hút thuốc hàn huyên trên đi-văng, lúc một mình thì nằm dài trên đi-văng. Mấy hôm đó tôi còn bị cảm nữa mới rách việc chứ, khạc ho ầm ĩ, sổ mũi nhức đầu, nằm nhìn trân trân lên trần nhà cố tìm một con thạch sùng mà không thấy, kiếm đâu ra thạch sùng ở cái xứ lạnh chết người này. Càng nghĩ càng thương bạn, càng nể bạn. Một ông khách lù lù hiện ra, rõ là không mời mà đến, đến bất chợt như thể từ trên trời rơi xuống. Có khổ cho người ta hay không? Phương Tây có câu, khách tới nhà ngày đầu là vàng, ngày hôm sau là bạc, ngày thứ ba là đồng, còn những ngày sau nữa thì là đá, là chì là gì gì, không cần kể. Dẫu sao với tôi phải hiểu như thế là tiện cho mình lắm, chỉ phiền là phiền cho bố con nhà Quán mà thôi.
Nhớ lại hai chục năm trước, ở Matxcơva, tôi cũng đã từng có những lần đến làm khách nhà anh. Là cứ ăn ngủ tự nhiên như ở nhà, thuốc hút khói um, chuyện trò thâu đêm suốt sáng, đứng trước cửa buồng chị Oanh vợ Quán hai tay chống nạnh, miệng tuy cố gắng cười mà đôi mắt thì gườm gườm như mắt hổ. Một đôi mắt hổ thiếu ngủ vì con bé con vừa sinh cũng có mà vì mấy gã đàn ông vô ý vô tứ đang kéo đến làm loạn cái tổ ấm này cũng có. Mấy bóng đàn ông chụm đầu vào nhau chuốc rượu, tay mỗi thằng cầm một con cá khô vùng Ast-ra-khan vừa mặn mọt vừa cứng như gỗ. Năm ấy chúng tôi kéo nhau qua đó là để theo một khoá học của trường viết văn M.Gorky, trong đoàn có cả Phạm Tiến Duật, tôi và Duật chung một buồng, những chiều rỗi rãi hai thằng lại rủ nhau kéo tới nhà Quán bù khú cho vơi đi nỗi nhớ nhà. Quán là một người bạn tốt tính tốt nết, lịch duyệt, mềm mỏng, và hết sức kiên nhẫn, nhún nhường. Có phải vì nhờ những ưu điểm ấy mà anh đã được chọn làm ngoại giao chăng.
Trong tiếng o oe của cháu gái từ buồng bên đang vọng ra, Duật lâm li nâng chén rượu lên, đôi mắt anh ươn ướt, long lanh như cũng muốn khóc cùng con bé. Duật nói, nào chén này là để uống mừng Oanh và Quán, chúc cháu gái mau khôn lớn, nó là món quà quý nhất ông trời đã ban cho cô chú. Làm ngoại giao của một đất nước nghèo như nước mình thì không thể tránh khỏi nhọc nhằn, đến một bộ quần áo ra đường nhiều lúc cũng thiếu, nhưng chẳng sao, điều sinh tử là phải giữ cho mình một cái cốt thật vững chãi. Những năm tháng này tớ thấy hình như đang sắp có chuyện gì không bình thường, thành phố này như đang sắp lên cơn say cả với nhau. Hãy cứ đứng trước cửa các ga tàu điện ngầm mà nhìn, quả là rối loạn, vào ra rối loạn. Lối vào có viết rõ chữ “vơ khốt”, lối ra là “vư khốt”. Nhưng đám người vào cứ “vư” mà lao, còn người ra thì cứ “vơ” mà xô đến. Vơ vư chen lấn xô đẩy, thành tắc nghẽn không thoát được. Đó là dấu hiệu bất thường. Mấy ông già bà lão, mấy cô cậu thanh niên cứ ngồi xuống ghế là y như rằng mỗi người đặt một cuốn sách lên đùi, nhưng con mắt lại ngó nghiêng đâu đâu, thế là diễn mà không đọc, bụng dạ nào mà đọc nữa.
Rồi Quán lại rót rượu và Duật lại uống. Chưa biết Matxcơva có lên cơn say hay chưa, nhưng đúng là đêm ấy Duật đã uống rất nhiều và anh đã say, anh lăn ra ngáy ầm ầm trên tấm thảm trải sàn, đầu gối lên đùi Quán. Một đêm có bão tuyết, gió chạy ù ù, nhìn ra cửa sổ thấy ngoài trời mù mịt, bóng đèn đường chập chờn mờ tỏ, tuyết bay phủ khắp nơi.
Bây giờ thì tôi đang nằm đây trong căn phòng khách của bố con anh. Một phòng khách nho nhỏ, đơn sơ có thể hiểu là chả có gì đáng giá, nó chỉ như một phòng trọ hạng bét. Tuy nhiên tôi vẫn cảm thấy hết sức bình yên.
Vác-sa-va cũng vừa ra khỏi một mùa đông nhiều tuyết, thành phố trẻ ra và đang mới mẻ lên theo năm tháng. Bầu trời trong veo, những nắng và gió, cây lá dệt thành những tấm thảm lục bát ngát phủ khắp các đường, đâu đó tôi nghe có tiếng chim riu rít, rất nhiều chim. Vác-sa-va là một thành phố của chim và của các thiếu nữ. Từng đám con gái đẹp như thiên thần, lộng lẫy kiêu sa, cô nào cô ấy áo xiêm duyên dáng, trong họ mà ngỡ như đó là những nàng tiên vừa bước lên từ hai bờ của dòng sông cổ tích Vít-soa...
 

Thương nhớ Tết quê

28/01/2025 lúc 23:02

TẾT LÀNG
 





B





ốn năm đi học xa nhà, mỗi năm về hai lần, vào dịp Tết và hè. Ngày hè thì không nói, nhưng Tết thì phải tận 26, 27 Tết mới được về, nên dường như mọi việc chuẩn bị cho cái Tết đã được bố mẹ chuẩn bị đâu vào đấy, chỉ việc đón Xuân thôi. Năm nay, may sao tôi về từ tận 21 âm lịch, cứ ngỡ sẽ được sống lại những ngày tháng cuối cùng của năm ngày nào. Nào ngờ.
Bình thường vào cử này là người làng tôi đã nhốn nháo đầu xóm, cuối thôn  “Tết về sau lưng rồi cô bác ơi!” Thế là dù có bận việc gì đi chăng nữa cũng để đấy, hay nếu có làm thì cũng huy dộng tất cả nhân lực xoay thật nhanh để xong trước ngày ông Táo lên chầu trời. Làng tôi có cái lệ, đón Tết từ ngày 23 âm lịch. Người lớn bảo: “Làm quần quật cả năm rồi, có mấy ngày cùng tháng tận trong năm có làm rốn cũng giàu hơn ai đâu, nghĩ sớm chút còn ăn chơi được, Tết thật sự rồi chả mệt bã ra còn sức đâu mà “ăn” và “chơi” nữa”.
Vậy nên từ 21, 22 đã thấy nhà nào nhà nấy thì thụp giã giò, rồi làm thịt lợn. Ông Táo làng tôi lên trời không chỉ bằng cá chép mà bằng cả chân giò, thủ lợn… Vào một sớm, trong cái giá lạnh mùa đông được phủ đặc bằng hơi sương còn tĩnh mịch bổng vang lên từ xóm giữa hay xóm trong, xóm ngoài tiếng lợn eng éc trước những tiếng gà canh tư là biết rằng mấy nhà đang chung nhau mổ lợn ăn Tết rồi. Con lợn được ngã ra, người quê là vậy, chia đều từ cái lưỡi đến cái đuôi. Riêng bộ lòng sẽ được làm cho mọi người uống rượu ngay tại đó. Và, nhà nào cũng có một hai đứa trẻ lẽo đẽo theo sau vừa là cho thoả mãn tính hiếu kỳ của chúng nó, vừa là làm chân sai vặt. Sau đó, kiểu gì cũng được bác chủ nhà cho miếng gan, miếng dồi chạy loăng quăng vừa nhai vừa nuốt nước miếng. Không hiểu sao, miếng lòng lợn ngon đến lạ, ngon đến tận năm sau. Hồi ấy, tôi cũng là một trong những đứa trẻ theo bố đi mổ lợn chung như vậy mà.
Càng gần Tết không khí càng rậm rịch hơn. Trời đất như cũng xuân hơn. Trời se se lạnh, mưa phùn lắt lay khiến con đường đê bụi đỏ mù lên trước đây như dịu lại, nữ tính hẳn. Ngoài đường, cành Đào với những nụ, những hoa đầu tiên bung cánh khoe sắc hồng ấm áp được người già, người trẻ bằng xe đạp, xe máy chở ngược chở xuôi về mỗi nhà. Rồi trong mỗi nhà, công việc như mọc ra nhiều hơn, toàn những việc không tên mà quay đâu cũng thấy, từ dọn vườn, dọn nhà đến chuẩn bị thức ăn, bánh trái.
Tôi thích nhất với việc gói và nấu bánh chưng. Bắt đầu là mấy chị em được bố mẹ giao nhiệm vụ đi rửa lá dong. Bàn tay nhỏ bé của tôi lạnh đến tê tái khi đưa tay và lá xuống dòng suối, rồi đặt lá lên mâm, dùng khăn miết thật mạnh để cho lá được sạch. Lạnh đấy, nhưng mà thích. Vì mình đã được cha mẹ tin tưởng, được làm thật sự chứ không phải một chân chạy lăng xăng nữa. Trong khi đó, mẹ làm nhân đậu, nhân thịt và ngâm gạo nếp ở nhà. Tối đến, bên mâm giữa nhà, dưới bàn tay rắn chắc của bố, những chiếc bánh chưng vuông vắn dần được hình thành sau những lần gập lá, buộc lạt. Tôi nhìn theo thao tác thoăn thoắt của bố mà quên cả nhiệm vụ cao cả là dùng lạt buộc hai chiếc bánh thành từng cặp. Cuối cùng, kiểu gì bố cũng giành cho anh em tôi một cặp hai chiếc bánh chưng con. Gọi là bánh chưng con nhưng nhân lại nhiều hơn ấy chứ, vì cuối cùng mà, nên còn bao nhiêu nhân bố cho cả vào đấy. Ngay sau đó, khoảng mười giờ tối là nồi bánh chưng bắt đầu đỏ lửa. Cái cảm giác ngồi canh nồi bánh vẫn sống lại trong tôi đến giờ. Trong khi ngoài trời  thì lạnh mà cạnh nồi bánh với những gộc củi tốt nhất, cháy đượm nhất  được giành từ lâu để Tết nấu bánh chưng cháy bập bùng thật ấm. Trong cái hơi ấm ấy, thêm mấy khúc mía lùi vào bếp, ăn vào ấm đến tận chân răng, ngọt đến tận gốc lưỡi. Thử hỏi, khung cảnh ấy, có ai không thích được cơ chứ. Với tôi, thích hơn nữa, háo hức hơn nữa là chờ được lấy cái bánh chưng con ra, thử đầu tiên. Mong ngóng lắm, chờ đợi lắm. Vậy mà tôi ngủ thiếp đi trong vòng tay của mẹ, của chị khi nào không hay.
Đếm cuối năm, mắt díp lại mà vẫn cố giương lên chờ đón giao thừa, để được hân hoan nhận tờ tiền mừng tuổi và lời chúc, lời dặn dò năm mới đầu tiên từ cha mẹ; để được nếm chiếc bánh trôi ngọt lừ tròng trành giữa bát mật sóng sánh như cô lại trong cái hơi lạnh nhưng thơm nồng của những làn khói hương cuộn tròn dùng dằng trong nhà không muốn bay đi của giây phút đầu năm mới; để được bố cho phép cậu cả nếm một chút vị cay cay ngòn ngọt của rượu vang với mong mỏi “Sang năm mới sẽ đàn ông hơn”....

Quê quán tôi xưa

28/01/2025 lúc 23:02






Đ





ấy chính là quê nhà thương khó của đời tôi.
Của hương hỏa riêng mang mà lắm khi quay quắt nhớ, không chỉ lúc lang thang xứ lạ quê người mà ngay cả khi ngồi trên bờ cỏ bên sông sau nhà hay ngã mình trên đống rơm vàng góc vườn sau mùa gặt, cái miền quê mơ hồ đâu đây cứ vọng về trong trí nhớ. 
“Quê quán tôi xưa”, Trịnh Công Sơn đã có một câu hát như bay về từ hư không “Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa, giọng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì” Sau này anh Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) có cắt nghĩa rằng quê quán tôi xưa của nhạc sĩ không phải là cái làng Minh Hương phía bắc thành phố Huế, mạn cảng cũ Bao Vinh đi về. Nỗi nhớ “quê quán tôi xưa” của Trịnh chính là cái vườn địa đàng xa thẳm, cũng như những nghệ sĩ lớn, như Lý Bạch ví mình là một trích tiên bị lưu đày, như Văn Cao lạc bước từ chốn Đào Nguyên về trần gian, và nhiều nhiều người nữa, bởi, “cõi tiên không gì khác hơn là khát vọng hằng có nơi người nghệ sĩ của muôn đời” (HPNT).
Mới đây trong một tùy bút của một nhà văn trẻ cũng lấy tựa “Quê quán tôi xưa” để trang trải nỗi hoài nhớ quê nhà khi cô đang ở tận xứ sương mù Anh quốc. Đất khách quê người, nỗi nhớ hẳn mênh mang trĩu nặng khôn cùng.
Nhưng đâu cần chi trời Âu bể Á, dân Quảng Trị quê tôi do hoàn cảnh lịch sử của vùng đất, lưu lạc nhiều vào phương Nam, đâu cũng gặp họ, và nỗi nhớ quê quán thường trực trong mỗi người, nhất là độ Tết xuân về. Ngày xưa sự cách trở muôn phần quan san bởi chiến tranh, bởi cuộc sống cơ hàn, bởi đò giang ngăn lối, nhưng nay chỉ một giờ bay với Vietnam Airline là từ Sài Gòn đã ra đến Huế, một giờ xe đò nữa thì chạm mặt quê hương, biết là như vậy nhưng mà sao đường về quê nhà cứ cảm giác cách ngăn một màn mưa sương hoang hoải. Nỗi nhớ ấy khiến ai cũng thành nhà thơ.
Tôi chưa thấy có Hội đồng hương nào mà cứ độ Tết về lại ra những tập san như Hội đồng hương Quảng Trị ở các tỉnh thành. Cũng không phải văn chương huê dạng chi nhiều, chỉ nhắc mãi nhắc hoài chuyện tiếng quê, chuyện mái đình cây đa, chuyện mưa sa nước sỉa, ăn món này, nấu món kia, năm nào cũng vậy, sách in ra rồi đọc, rồi ngâm ngợi, vậy mà nỗi nhớ ấy viết mãi năm này qua năm nọ không hết.
Ai cũng có một “quê quán tôi xưa” trong mịt mùng hoài nhớ. 
Và cái nỗi nhớ ấy luôn khản khắc trong tôi như khi đi qua miền đất này vùng quê nọ, gặp bóng xưa rêu phong trong ngôi miếu cổ, một dáng cổ thụ đầu thôn, nước giếng làng soi bóng thì cái “giọng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì” vang lên từ quê nhà cứ khắc khoải như tiếng cuốc đêm hè. Nói nhớ như vậy cũng có căn nguyên của nó! 
Hồi tháng 10 mới đây, đi dự hội thảo lịch sử về triều đại nhà Nguyễn ở Thanh Hóa, khi đứng trước bức không ảnh chụp lăng miếu Triệu Tường ngày xưa nguy nga lộng lẫy đã thành bình địa sau bao dâu bể nỗi đời thì cái miền ký ức quê nhà hương hỏa ấu thơ lại hiện về mồn một.
Không phải là những đền đài chùa miếu uy phong , nhưng ký ức hoa râm của mái đầu đủ lặn lội nhớ về những dấu xưa man mác một quê quán thanh bình và nho nhã, thâm hậu mà huyền hoặc.
Quê tôi không có những đền to miếu lớn, cũng không có ai danh thần khoa bảng gì, một ngôi làng bình dị như muôn ngôi làng khác nơi miền đất gió cát. Và cũng vì thế mà nó mang vác một số phận như bao nhiêu ngôi làng nhỏ bé ấy, sau những bể dâu bom đạn, sau những bể dâu trên đời dân phận người, bể dâu trên những dấu tích tiền nhân từng may mắn vẹn nguyên đi qua chiến tranh.
Nỗi nhớ bắt đầu từ cái giếng hình vuông được kè bằng đá, bốn mùa nước trong vắt. Bây giờ lớn lên mới biết kiểu giếng ấy là của người Chàm chứ thời thơ dại chỉ mơ hồ biết đấy là cái giếng “thiêng”. Quê tôi hồi đó chưa có hồ đập thủy lợi, khát là nỗi ám ảnh của mùa hè khi gió Lào thổi ràn rạt , nước sông khô kiệt rong rêu và lòng giếng nào cũng trơ đáy, thế nhưng cái giếng Chàm với cây duối cổ thụ ngã bóng luôn ăm ắp nước ngọt, ngọt như những trái duối chín vàng sum suê trên cành, mang những niềm vui cho tuổi thơ chăn trâu cắt cỏ. 
Cũng trong xóm tôi có một chỗ để thờ đạo học gọi là Văn Thánh, bà con trong xóm gọi là “Nương” Thánh- “nương” chính là cách gọi cái vườn quê của người dân Quảng Trị. Chỗ đó sau ngày hòa bình cỏ cây lên rậm rạp, nhiều rắn, không còn ai cúng lễ bởi sẽ bị coi là “mê tín dị đoan”. Văn Thánh ở xóm tôi không to lớn kỳ vĩ nhưng sau này lớn lên, nhớ về nó, tôi thường bâng khuâng nhớ câu thơ xưa của Nguyễn Bính “Nhà ta coi chữ hơn vàng, Coi tài hơn cả giàu sang trên đời”. Cái nơi thờ tự những người hay chữ, tôn vinh đạo học của tiền nhân ấy nay cũng không còn....
 

100 ngày vượt trường Sơn

28/01/2025 lúc 23:02






T





rong đời tôi có những năm tháng khắc tạc vào trí nhớ, không thể quên. Một trong những ký ức mãi tươi ròng không thành sẹo đó là 100 ngày vượt Trường Sơn đánh giặc. Hàng triệu người lính đã vượt Trường Sơn. Hàng vạn người lính đã nằm lại giữa lòng Trường Sơn. Trường Sơn “Ai chưa đến đó như chưa rõ mình” ( Tố Hữu). Đường Trường Sơn luôn luôn là một bí ẩn không chỉ đối với kẻ thù mà cả đối với những người đã từng 100 ngày leo đèo vượt suối như tôi. Đã 36 năm rồi, cuốn “Nhật ký Trường Sơn” mỏng của tôi dẫu nhòe bụi thời gian vẫn nóng hổi từng con chữ. Xin gửi đến bạn đọc trẻ hôm nay những hồi ức rút từ cuốn nhật ký ghi vội giữa chiến trường năm ấy…
1. NHỮNG NGÀY ĐẦU LÊN TRƯỜNG SƠN
Tiểu đội chúng tôi trong đội hình Sư đoàn 325 khung vượt Trường Sơn năm ấy toàn sinh viên Đại học Thương nghiệp Hà Nội. Đứa đang ôn thi tốt nghiệp được công nhận tốt nghiệp đặc cách, đứa học năm thứ hai, ba. Tôi có mấy anh em thân thiết như ruột thịt  là Võ Văn Đảm, Lê Văn Trung  (Vĩnh Linh), Nguyễn Văn Dũng - (Ý Yên Hà Nam), Nguyễn Hữu Thước (Nam Đàn Nghệ An), rồi Hồng, Phan Văn Các, Cao Xuân Hậu.v.v.. Đóng quân ở Phổ Yên, sau  3 tháng đeo gạch, đá, tập leo đèo, vượt dốc ở Tuyên Quang, Bắc Kạn, chúng tôi sắp hành quân vào B2 . Đầu tháng 1-1973, chúng tôi  tổ chức đám cưới của cho đôi uyên ương Đảm – Quỳnh. Hai người yêu nhau thắm thiết ba bốn năm rồi. Đám cưới  được tổ chức tại  ngôi trường tiểu học vào ngày chủ nhật. Hơn chục  anh em dân Đại học Thương nghiệp đóng vai nhà trai, mặc toàn đồ bộ đội...

Lời Bác thấm đẫm đời tôi

28/01/2025 lúc 23:02






“S





ếp gà” - Cái tên ngồ ngộ ấy, gần đây cứ vang vọng khắp huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Nó cũng thực sự hấp dẫn tôi - một gã khá hiếu kỳ giữa thời A còng, ngổn ngang sự lạ.
Thế là chiếc “xe con” lao tít mù, đưa tôi về xã Quang Minh – vùng đất vừa sâu, vừa xa nơi cuối huyện.
- Này anh! Chỉ dùm tôi nhà ông Thông, có cái trang trại chăn nuôi lớn nhất vùng này ấy.
- Ồ! Chàng thanh niên kêu lên - thế thì sáng nay ra ngõ, bác gặp vía trai rồi! Cháu chính là con rể ông ấy đây. Mời bác đi với cháu!
- Thế mà...vía gái mới hay chứ!
- Hay! Vậy cái vía ấy chắc là xinh lắm phải không bác?
- Xinh! Nhưng đã được làm rể “sếp gà”, còn hỏi xinh, với xấu làm gì cho... phạm luật!
Tiếng cười “Xuân Hinh” cứ rộn lên với hai bác cháu trên con đường quanh co, chạy miết về phía cuối làng.
Dừng xe trước ngôi nhà mái bằng còn khá đỏm dáng, tôi hình dung chủ nhân của nó là một tay trai trẻ, khá bảnh bao. Nhưng không. Đó là một lão gia xấp xỉ bảy mươi xuân. Tóc hoa dâu. Râu mộng mạ. Dáng dấp thật cũ kỹ, đầy phong sương, nhưng đôi mắt lại lấp lánh, ánh lên vẻ tân kỳ. Nói tân kỳ bởi vẫn tinh anh và còn duyên lắm. Chính cái “duyên” ấy, đã khía vào tôi một nét nhớ mơ hồ. Vết “khía” làm tôi chững lại một giây:
- Này ông! Hình như tôi đã gặp ông ở đâu?...
- Tôi cũng có cảm giác ấy!...
Chủ nhà tươi cười, kéo khách vào bàn nước. Chén trà bốc hơi ngào ngạt, nhưng không thể nghĩ tới trà. “Nét nhớ mơ hồ” kia cứ cuộn lên, bắt tôi phải vào đề ngay:
- Thế này không phải, nhưng ông cho tôi được biết: Thuở thiếu thời, ông học ở những đâu?
- Mời ông cứ uống nước cho nóng đã - chủ nhà chậm rãi: Cấp 2, tôi học ở Cổ Rồng và Tán Thuật. Cấp 3 ở Tiền Hải - Tây Sơn.
- Cấp 2, ông có biết thầy Lê Xuân Tùng?...
- Thầy Tùng người miền Trung, từng là uỷ viên Trung ương, Bí thư thành uỷ Hà Nội ấy à? Chính thầy đã dạy môn Văn tôi đấy.
- Còn cấp 3 Tiền Hải?...
- Khoá 1. Ra trường năm 1964
- Trời! Tôi kêu lên. Thông! Có phải Đặng Tất Thông 10c đấy không?
Thục. Nguyễn Văn Thục 10b đây! Ngày ấy, hai lớp chỉ cách nhau một bức vách. Còn nhớ những pha bóng đá cháy là chuối không?
Chúng tôi ôm sồ lấy nhau, nghẹn ngào,
Hồi lâu khi sóng lòng tạm lắng, tôi bảo Thông:
- Hơn bốn mươi năm rồi, hẳn là bể dâu lắm. Hãy kể cho mình quãng đời ấy của bạn đi!
- Dâu bể thật! Thông trầm tư, húng hắng: Nếu ông biết tôi từ cấp 2 thì hẳn vẫn nhớ thằng Thông “cò hương” ngày ấy: Bố chết sớm. Mẹ oằn lưng, cõng địu một đàn con nheo nhóc. Nhà là túp lều cạnh mảnh vườn hoang. “Giường” là chiếc ổ rạ đầy bụi mốc. Cơm toàn cục muống, dãi khoai. Nhiều bữa anh em tôi phải ăn cháo cám nấu với thài lài. Thấy nhà gieo neo quá, mấy lần tôi định bỏ học. Mẹ tôi bảo: “Con ơi! Không học thì mù óc. Mù óc còn khổ hơn mù mắt đấy!” Nhìn người hỏng mắt ăn xin ngoài chợ, tôi đành quay lại trường, nhoai người giật lấy cái bằng cấp 3! Tú tài toàn phần ngày ấy có giá lắm chứ! Tôi hi vọng mảnh bằng ấy sẽ “cởi trói” cho mình. Nào hay, mãi mãi nó chỉ là kỷ niệm vùi sâu dưới đáy chiếc hòm đầy dẻ rách của tôi!
Tiễn bạn đi đại học chuyên nghiệp rồi, tôi thẫn thờ quay về túp lều, cầm lấy chiếc cuốc học nghề bới đất. Mấy năm dạy bổ túc văn hoá và tập tểnh theo trâu, đã giúp tôi kịp nhận ra mình. Chẳng muốn ở nhà, tôi thèm đi bộ đội quá. Khám tuyển sáu - bảy lần vẫn ế. Cái bệnh loạn nhịp tim đã phản trắc tôi. Buồn nản, ngán ngẩm trước cảnh tình không lối thoát. Tôi bèn tìm cách “chuồn” lên Phú Thọ làm thuê. Nghề làm thuê của tôi là đục khóet núi đồi, làm ao cho bà con dân tộc nuôi cá. Ban đầu, thấy tôi chưa đầy một nẹn, ai cũng nguây nguẩy lắc đầu. Nhưng chỉ sau dăm tháng, người ta lại sửng sốt nhận thấy tôi làm ăn được. Chẳng những không ốm, không chết mà có phần béo khoẻ ra. Thế là họ ầm ầm kéo đến tranh nhau “đặt hàng”. Ngày ngày, một mình với đôi quang gánh, chiếc búa chim và cái xà beng, tôi cứ kẽo kẹt “gánh cực mà đổ lên non”! Cứ được đúng ba khối là ra suối “tắm tiên”! Dứt khoát không làm hơn nữa. Nhờ phương thức lao động kiểu “thể dục thể thao” ấy, mà tôi đã không bị đất đá đè bẹp. Suốt mười bốn năm như thế, tôi đã hoàn thành trên năm mươi chiếc ao lớn nhỏ. Điều lạ lùng hơn: cái bệnh loạn nhịp tim tự nhiên biến mất. Nhờ vậy, khi chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, tôi mới có vinh dự được tham gia đội thanh niên xung phong lên Lai Châu phục vụ chiến đấu, rồi ra Quảng Ninh bạt núi trồng rừng và vào Thuận Hải xây dựng khu kinh tế mới...
 

Đường 9 thời hội nhập

28/01/2025 lúc 23:02






Đ





ã bao lần đi về trên con đường số 9, nhưng chuyến công tác Savanakhet cách đây ít lâu đã đem lại cho tôi một cảm nhận riêng. Câu nói: du lịch “ngày ăn cơm ba nước” quả là cách nói hình ảnh, bởi mới buổi sáng khởi hành từ Đông Hà, trưa chúng tôi đã ở trên đất Savanakhet (Lào) và chiều đã băng qua cầu Hữu nghị II chạm đất Mụcđahán (Thái Lan) ăn tối, nghỉ ngơi. Tuyến đường êm thuận đã làm gần lại những vùng đất trên hành lang Đông Tây.
Có dịp ngồi bên dòng Mê Kông cùng những đồng nghiệp ở báo Savanakhet phát triển uống bia Lào, nhâm nhi món cá nướng, ngắm phố xá sầm uất hai bên dòng sông chở nặng phù sa cuồn cuộn chảy, tôi lại hướng liên tưởng của mình về mảnh đất quê nhà. Duyên cớ là anh bạn đồng nghiệp ở báo Savanakhet phát triển bảo rằng tâm lý người Thái rất thích về Việt Nam vừa để du lịch biển, vừa để xem mảnh đất mà trước đây họ chỉ biết đến là chiến tranh khốc liệt bây giờ thay đổi ra sao!
Tuyến đầu năm xưa, đầu cầu hôm nay
Như là một sứ mệnh mà lịch sử đã đặt trên vai, trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Quảng Trị là tuyến đầu. Và cũng bởi vì là tuyến đầu nên cả nước đã quan tâm dồn tất cả tâm lực và sự hy sinh vào đây để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử giao phó. Chiến tranh đi qua, những tên đất, tên làng trên mảnh đất này gợi nhớ về một thời đau thương, anh dũng. Từng là tuyến đầu năm xưa, bây giờ Quảng Trị đang còn nghèo khó, nằm trong tốp các tỉnh nghèo của cả nước. Vì thế mà trong các Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Quảng Trị đều nêu cam kết chính trị, quyết tâm ra khỏi nhóm tỉnh nghèo, vươn lên cùng cả nước trong dòng chảy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế thế giới để phát triển.
Có sự gặp gỡ chăng trên mảnh đất này, khi từ tuyến đầu năm xưa, bây giờ lại trở thành tỉnh đầu cầu trên tuyến đường xuyên Á. Và như thế Quảng Trị thời nào cũng vậy, đều ở trong thế khởi động để hướng về phía trước. Có thể thấy mục tiêu khai thác hành lang Đông Tây (EWEC) được đề ra trong Nghị quyết của Tỉnh ủy Quảng Trịlà một hướng mở để Quảng Trị hội nhập sâu vào nền kinh tế của khu vực và thế giới.
Về mặt địa lý, người ta từng ví miền Trung như chiếc đòn gánh và là điểm tựa tạo lực cho sự phát triển của hai đầu đất nước. Giờ đây đến lượt mình, nơi điểm tì vai của chiếc đòn gánh ấy có một lợi thế mà không phải nơi nào cũng có được. Đường 9, “lối đi mơ ước” mà người Pháp từng khai mở để khai thác thuộc địa Đông Dương năm xưa, tiếp đến người Mỹ thay chân đến đồn trú tại đây, để rồi phải đối mặt với trận “Điện Biên Phủ thứ hai” ở Khe Sanh cách đây hơn 40 năm, bị thất bại thảm hại bởi ý chí sắt đá của quân và dân ta bây giờ là trục chính của Hành lang kinh tế Đông- Tây đi qua Quảng Trị. Đường 9 không chỉ có ý nghĩa về mặt quân sự mà còn là con đường kết nối các nền kinh tế, mở ra hướng phát triển cho cả tiểu vùng Mê kông rộng lớn.
Nhiều người đã nói về cơ hội mở ra trên hành lang Đông- Tây, trong đó tôi tâm đắc với ý kiến rằng: Ở phía Tây hình như người ta đang đợi mình và Quảng Trị cần phải làm điều gì thật cụ thể để người ta vào cuộc. Mình là chủ nhà, nếu không cởi mở, ra tín hiệu thì làm sao người ta tiến đến bắt tay hợp tác! Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo và Khu kinh tế thương mại đặc biệt (KT-TMĐB) Lao Bảo, bên đối diện là Khu kinh tế Đensavẳn là quyết định của Đảng, Chính phủ hai nước Việt- Lào, là khu kinh tế đối ứng giữa hai nước. Lao Bảo là điểm khởi đầu, bắc nhịp cầu quan hệ hợp tác với Lào, Thái Lan, Mianma.
Đường 9 là con đường ngắn nhất, thuận lợi nhất đảm bảo giao thông liên tục từ nội địa Việt Nam đến Savannakhet (Lào), Mụcđahán (Thái Lan) với khoảng 240 km, có thể đi lại thuận lợi kể cả trong mùa mưa. Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo được đầu tư xây dựng vận hành tốt, cùng với hệ thống giao thông trong khu vực được xây dựng góp phần vào phục vụ chiến lược phát triển Hành lang Kinh tế Đông Tây. Không phải ngẫu nhiên mà trong Nghị quyết 39-NQ/TƯ của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng- an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010, xác định Lao Bảo nằm trong tuyến phát triển mạng lưới đô thị của khu vực. Thêm nữa, Quyết định 24/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành một số chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 xác định, phải ưu tiên đầu tư xây dựng Khu KT-TMĐB Lao Bảo để mở rộng giao lưu buôn bán, phát triển du lịch, tăng cường dịch vụ với các nước trong khu vực…Theo đó, xây dựng Lao Bảo trở thành thành phố nằm trong hệ thống đô thị động lực cấp I. Không thể chậm chân, nắm bắt cơ hội này, Tỉnh ủy Quảng Trị đã cụ thể hóa chủ trương của Trung ương thành  Nghị quyết 06/NQ-TU về đầu tư khai thác Hành lang Đông Tây. Nghị quyết này đã xác định Khu KT-TMĐB Lao Bảo là vùng động lực của tuyến động lực…Đó là các mục tiêu chính mà Quảng Trị đang hướng đến.
Với vị trí thuận lợi nằm ở đầu cầu của hành lang Đông  Tây về phía Việt Nam, lại đang tích cực triển khai dự án cảng Mỹ Thủy cùng với khu kinh tế Đông Nam, sắp đến đây khi Hiệp định vận tải qua biên giới được thông qua, Quảng Trị có cơ hội trở thành nơi giao thương, tập kết hàng hóa xuất nhập khẩu hai chiều đi đôi với cơ hội phát triển du lịch, dịch vụ. Tiến trình thông thương tuyến đường bộ chung Việt Nam- Lào - Thái Lan đang mở ra cơ hội phát triển mới cho cả nước, miền Trung, trong đó Quảng Trị sẽ là tỉnh đầu tiên có thể được hưởng lợi rất nhiều để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội mang lại từ con đường huyết mạch giao thương quan trọng này...
 

Tìm

28/01/2025 lúc 23:02






1





- Hồi công tác ở Savẵn, Savanakhet, Lào, những lúc rỗi rãi, tôi lại ra tựa mạn thân cầu Mitaphap để làm cái việc lẫn thẩn là đếm những chuyến  xe từ Thái Lan nhằm phương Đông trực chỉ. Phương Đông là Việt Nam, là Quảng Trị quê tôi. Tôi hiểu rằng, một du khách nhập cảnh vào Việt Nam qua Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo tìm cơ hội làm ăn hay đi du lịch, thăm thân nhân, tự khắc trong đó đã liên quan đến cả một quy trình rất thực tiễn và phong phú về lữ hành, lưu trú, mua sắm, tiêu dùng, maketting, an ninh, sự thân thiện và tôn trọng...mà các cơ quan hữu trách, các cơ sở dịch vụ phải tìm cách đáp ứng thật nhanh nhạy và tiện ích. Làm sao cho du khách đến Quảng Trị, đến Việt Nam một lần, muốn đến lần nữa và giới thiệu cho nhiều người cùng đến là cả một nghệ thuật phục vụ, giao tiếp, quảng bá... đòi hỏi có sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả của rất nhiều ban, ngành chức năng, chính quyền địa phương và người dân sở tại. Một chuyến hàng thông quan cũng vậy. "Đồng tiền đi liền khúc ruột". Thời gian trong kinh doanh hiện được tính như sự đỏng đảnh của tỷ giá vàng trên thị trường, do vậy, thông thoáng, cởi mở, tạo thuận lợi hết sức cho doanh nghiệp thông quan trong thời gian ngắn nhất, chi phí rẻ nhất mà vẫn đảm bảo các thủ tục theo quy định là cả một nặng trĩu thách thức. Phấn đấu để vượt qua thách thức là có lạc quan trong đó.
Không phải đến tận bây giờ, chúng ta mới cảm nhận được niềm may mắn khi sở hữu con đường số 9, tuyến đường huyết mạch thông ra biển Thái Bình Dương của nhiều quốc gia Đông Nam Á, tuyến đường mà từ năm 1906, Toàn quyền Đông Dương Beau đã từng khẳng định:" chỉ con đường này là thực tế nhất" và "đây là lối đi xuyên mơ ước, cái lỗ hổng lý tưởng dẫn ta vào nội địa xứ Đông Dương". Vào những năm 1990 trở về sau này, giữa bộn bề công việc hệ trọng cần sắp đặt, triển khai gấp rút và vận hành hiệu quả của một tỉnh mới tái lập, Quảng Trị vẫn dành sự quan tâm đặc biệt để đánh thức, khai thác tiềm năng kinh tê - xã hội đường 9 bằng các cuộc hội thảo khoa học, lập luận chứng kinh tế, kỹ thuật, thu hút, kêu gọi đầu tư,  chủ động tham gia chương trình hợp tác trên Hành lang kinh tế Đông-Tây (EWEC) mà con đường 9 là "xương sống chiến lược", từ rất sớm. Tỉnh đã ban hành một loạt các Nghị quyết về phát triển KT-XH gắn với EWEC như Nghị quyết về phát triển KT-XH miền Tây, miền biển; về phát triển du lịch; về xây dựng, phát triển đô thị...Đặc biệt, ngày 12/12/2006 Tỉnh ủy Quảng Trị đã ra Nghị quyết về đẩy mạnh đầu tư, khai thác tiềm năng, lợi thế Hành lang kinh tế Đông- Tây đến năm 2010, có tính đến năm 2015.
Có thể khẳng định, khai thác lợi thế đường số 9 đã mở ra với rất nhiều tiềm năng và bước đầu đã thu được những thành tựu quan trọng,  nhưng  trên thực tế, để "lối đi xuyên mơ ước" này trở thành một con đường "thực tế và kinh tế nhất", vẫn còn nhiều việc phải làm.
2- Năm 2006 có một việc được đánh giá mang tầm "sự kiện", chứa đựng một thông điệp nhiều nhắc nhở mà ai có dịp đi lại trên tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây đều biết, đó là những doanh nhân ở Savanakhet (Lào) đã "đánh" gần bốn trăm ngàn tấn hàng ngược lên Băng Cốc (Thái Lan) để xuất khẩu qua đường cảng biển bên bờ Ấn Độ Dương. Họ phải vượt một quãng đường tương đương cung đường Đông Hà- Hà Nội, lại phải sang sông lụy đò nhiêu khê qua dài rộng Mê Công cách trở (khi cầu Hữu Nghị 2 chưa khánh thành). Chặng đường này lại dài gấp đôi so với từ Savanakhet xuôi Quốc lộ 9 về Cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo rồi ra các cảng biển miền Trung Việt Nam nằm bên bờ Thái Bình Dương. Lý do đường gần vẫn muốn đi vòng cho xa nằm ở một dích dắc nhạy cảm, đó là do chi phí đường xa nhưng rẻ chỉ bằng một nửa so với đường gần. Có dịp cật vấn một trong những doanh nhân tham gia "phi vụ" này khi có dịp sang công tác tại Savanakhet, chúng tôi mới vỡ lẽ, chi phí chính thức và phi chính thức ở các cửa khẩu, bến cảng, lưu thông trên các tuyến đường...ở Việt Nam đều khá cao nên dù đường gần mà vẫn không có lãi bằng đi đường xa qua ngã Băng Cốc, lên Ấn Độ Dương.
Chúng tôi đã được tiếp cận một phần trong Dự án khảo sát thực hành các tuyến đường bộ khu vực Mê Công 2007 (Project for Practical Realization of Mekong Region Land Routes 2007) của Bộ Kinh tế- Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản được đưa ra lần đầu tiên tại Hội nghị Bộ trưởng Công Thương 3 nước Việt Nam, Lào, Thái Lan tổ chức vào cuối năm 2007 tại Savanakhet (Lào). Dự án được trình bày ngắn gọn như một dụng cụ trực quan, sống động, dễ hiểu nhưng đọc xong ta có cảm giác vừa thú vị xen lẫn bàng hoàng bởi sự chính xác đến lạnh lùng của các số liệu thống kê do chính các chuyên gia Nhật Bản thực hiện. Dự án đã phác họa lộ trình vận tải của một ô tô vận chuyển hàng hóa từ thủ đô nước Thái đến thành phố Hồ Chí Minh qua các cửa khẩu trên tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây bằng đường bộ vào tháng 10/2007 mất tám mươi bảy giờ bốn mươi lăm phút, trong đó thời gian chạy xe thực tế là ba mươi tám giờ, thời gian làm thủ tục hải quan, kể cả chuyển hàng là sáu giờ bốn mươi phút. Cũng một chuyến hàng, xuất phát từ Băng Cốc đến Hà Nội,  lộ trình có ngắn hơn nhưng còn nan giải hơn, mất đến bảy mươi chín giờ ba mươi phút, trong đó thời gian thực tế chạy xe là ba lăm giờ  bốn lăm phút, thời gian làm thủ tục hải quan là chín giờ!..
 

Phía Bắc thành phố

28/01/2025 lúc 23:02






T





ôi nhận được thông tin Đông Hà trở thành thành phố khi đang cùng bạn xuống thuyền từ mép chân cầu sắt  cậy nhờ sông hiếu để lên đường Hoàng Diệu. Trên đầu, tàu Thống Nhất đang lao tốc lực ra hướng Bắc với một âm thanh riết róng, dưới tầm tay khoát là sông Hiếu mơ màng, bờ sông có những vồng tre xanh đang nâng chiều lên bát ngát, có những tiếng chim sẻ lách chách  đan cài như tiếng phát ra từ những cuống lá trong sâu thẳm vườn quê, bỗng nhwos đến câu thơ của anh Đỗ Hoàng đã đọc từ mấy mươi năm trước: cầu qua hai ngã, hai triền rộng/ ĐôngHà xinh xắn như vẩng trăng/ mỗi ánh sao lên ngoài phố cảng/ tgieengs bầy chim núi cứ bâng khuâng...
Tôi biết, tôi đang đi ngang qua thân mình một con sông duyên dáng vào bậc nhất Quảng Trị. Từ ngàn xưa, dòng sông Hiếu đã gắn bó cất ruột với mảnh đất  và con người Đông Hà. Với vị trí năm giữa lòng thị xã, soongb Hiếu tô thêm vẻ đẹp thiên nhiên vốn có và cảnh quan kiến trúc đô thị, góp phần điều hòa khí hậu, cân bằng hệ sinh thái cho toàn vùng. Cùng với sự phát triển của cư dân đô thị, sông Hiếu đã tạo nên nhịp ngắt như quảng lặng trong một hành khúc của cuộc sóng, thu vào trong nó bao ồn ả, nhộn nhịp, sum vầy nơi phố xá đôi bờ và lại được qui hoạch như là một không gian kiến trúc thoáng đãng, điểm nhấn kiến trúc độc đáo của thành phố Đông Hà.
Sống giữa lòng thành phố
Bây giờ rất nhiều người Đông Hà đã có thói quen khi chiều xuống lại tìm về nơi những triền sông Hiếu để hóng mát. Người dân làng hoa An Lạc xứng danh là những người nhanh nhạy với thời cuộc khi “bung” ra, chiếm lĩnh khoảnh đất còn ướt đẩm mùi nê địa ngay trước thềm nhà khi con nước ròng Hiếu Giang vừa rút xuốngđể đóng trại dựng lều mở mang dịch vụ ăn uống, giải khát. Bây giờ, một đoạn đường Trần Nguyên Hãn nhỏ hẹp, lẫn trong tre trúc, kề bên mép nước quẹo từ cầu Đông Hà về chưa đến đập Đại Độ đã chen dày những hàng quan. Những tên quán nghe bình dị, chân mộc như Bãi Bồi, Cát Vàng, Bên Sông... hay ẩn nhẫn một khát vọng tốt lành như Phúc Lai, An Bình, luôn đầy ắp thực khác. Người uống bia dầm chân xuống đất ẩm, trò chuyện trong tiếng rền vang của đò máy xuôi ngược và tiếng gỏ mạn tuyền của người dân chài thư thái buông câu. Anh Hoàng Hữu Quốc, Phó Chủ tịch Ủy ban phường Đông Giang khoe: “Chỉ tính riêng trên đoạn đường Trần Nguyên Hãn đã có mười một quán anh ạ. Trước đây, toàn bộ bà con đều là dân nông nghiệp, chỉ thạo nghề trồng lúa, trồng hoa, cuộc sống cũng không đến nổi nào, nhưng vất vã lắm. Bây giờ, nếu tính hiệu quả kinh tế thì tôi chỉ nói gọn thế này để anh dể hình dung, trồng hoa, lợi nhận gấp ba, bốn lần trồng lúa, mở hàng quán lợi nhuận gấp bốn, năm lần trồng hoa. Mỗi quán bán hàng ăn uống, doanh thu trung bình khoảng 15 triệu đồng một tháng, giải quyết việc làm, có thu nhập cao và ổn định cho rất nhiều người. Toàn phường Đông Giang có 1170 hộ, gần 5000 khâu, trong đó có 65% là lao đông nông nghiệp. Chính từ trồng hoa, làm nông nghiệp, nuôi tôm, mở mang ngành nghề, dịch vụ mà những năm gần đây, diện hộ nghèo trong phương đã giảm đến mức thấp, người giàu có thì ngày càng thêm nhiều, thu nhập bình quân đầu người đã đạt 7,8 triệu đồng, riêng nông nghiệp 5,5 đên 6 triệu đồng. Tỉ trọng thương mại, dịch vụ, ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp chiến trên 60% tổng doanh thu toàn phương, còn lại là nông nghiệp và quá trình chuyển dịch này vẫn đang được tiếp tục khi Đông Hà đã trở thành thành phố”.
Trên bàn làm việc của anh Trần Văn Chương, Chủ tịch UBND phường Đông Thanh trải một tấm bản đồ quy hoạch chi tiết khu đô thị mới Bắc Sông Hiếu do công ty tư vấn xây dựng Công trình văn hóa và Đô thị tại Hà Nội lập từ năm 2004. Cả một không gian kiến trúc bề thế và căn cơ với diện tích 128 ha đã hiện lên dưới tầm ngắm của những nhà hoạch định kinh tế và điều hành vĩ mô. Tôi nhìn ra cửa phòng anh Chương, cả một đám cỏ xanh nà nuột xen lẫn ruộng màu kia rồi sẽ là những khu đô thị mới, công viên, vườn hoa, khu nhà vườn, nơi giàn giáo vừa hạ kia là ngôi trường mới mang tên Tiên sĩ Bùi Dục Tài đang được xây dựng, rồi nhà đón tiếp thân nhân liệt sĩ an nghĩ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn, rồi trung tâm kiểm nghiệm hóa thực phẩm... sẽ đua nhau mọc lên. Trong tương lại gần nữa thôi, đường Hoàng Diệu sẽ được mở rộng 34m, kéo dài từ cầu Đông Hà lên cầu đường sắt, nối với Trần Nguyên Hãn mở rộng 60m từ bờ sông vào, Vươn đến đập Đại Độ 1; kè Sông Hiếu giai đoạn một dài 12km từ cầu Đông Hà................. kè Sông Hiếu giai đoạn 2 với kinh phí gần hai trăm tỷ đồng đang được xúc tiến xây dựng. Từ đây, nhà ở dân cư sẽ đước sắp xếp lại dọc những con đường thanh thang mới mở sẽ là những siêu thị, nhà hàng, khu vui chơ, giải trí đêm lại một diện mạo mới cho thành phố trẻ. Anh Chương tâm sự: “Đông Hà lên thành phố, nhiều dự định, nhiều kỳ vọng lắm anh ạ. Đất quê mình mênh mong, lại cận thị, cận da, phong cảnh thanh bình, làng thôn trù phú, lòng dân đồng thuận, có mở rộng, quy hoạch, giải tỏa cũng không ách tắc nhiều, chỉ ngại thiếu vốn. Nếu huy động được nhiều nguồn lực, đầu tư đúng trọng tâm, trọng điểm theo như tinh thần lấy sông Hiếu làm trung tâm cảnh quan và địa điểm kiến trúc, thì không lâu nữa, đất quê sẽ hóa đát vàng...”...
 

Soi bóng dòng Thạch Hãn

28/01/2025 lúc 23:02






C





ơn mưa đầu tháng Chín giữ chúng tôi lại dưới mái tam quan cách điệu của Đài Tưởng niệm chiến sĩ Thành Cổ Quảng Trị trong sự im lặng thành kính. Nhìn nén nhang đang cháy tỏa thơm cả khoảng trời, Hồ Minh Đạo nói giọng bùi ngùi rằng mùi hương này là lòng tưởng nhớ và niềm biết ơn của một hay nhiều người nữa vừa gửi lại nơi mà đồng đội của mình hoặc cha anh của mình đã hóa thân vào cỏ cây, đất đai, sông núi vì độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất của đất nước, quê hương. Tôi thấu thị điều đó bằng sắc trắng rung rung của vài bông cỏ lau mảnh khảnh còn sót lại của mùa hè đang bịn rịn chia tay với viên gạch hồng Thành cổ trước lúc được người dẫn đường đưa vào hành trình khám phá những điều thuộc về sức cuốn kỳ lạ của mảnh đất trầm tĩnh, hiền hòa bên dòng Thạch Hãn.
Những viên gạch trên tường thành và dưới lớp đất ở đây vừa tròn hai trăm tuổi- tôi nghe trong lời dẫn chuyện của Hồ Minh Đạo nổi bật âm sắc của niềm vui và lòng tự hào về Thị xã Quảng Trị. - Là một phần của sử thi của đất nước được dân tộc Việt Nam viết bằng máu và hoa trong các thời kỳ dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, Thị xã Quảng Trị đã trải qua hai trăm năm un đúc các giá trị lịch sử, văn hóa với tất cả tinh thần và ý chí của một vùng đất được nhiều thế hệ tiếp nối nhau vun bồi. Hai trăm năm qua, biết bao người đã làm vẻ vang sông núi, tiếng thơm lịch sử và văn hóa của Thị xã Quảng Trị để mỗi khi khấn nguyện tổ tiên, người dân thị xã không thẹn với cha ông hoặc mỗi lần gặp gỡ bạn bè muôn phương vẫn nguyên vẹn lòng tự hào sâu đậm về quê nhà soi bóng dòng Thạch Hãn vinh quang. Thành cổ vẻ vang, Thạch Hãn vinh quang là hai cụm từ được người bạn hiền của tôi nhắc đi nhắc lại. Và, cội nguồn của sự tuyên xưng ấy được Hồ Minh Đạo khai mở trong tâm trí của tôi bằng chính những trang sử tươi đẹp, hào hùng và bi tráng.
Được xác lập trong phạm vi của bộ Việt Thường vào thời đại Hùng Vương, tiếp đến thuộc châu Ô của vương quốc Chămpa- từ đây, chúng tôi bước vào những dòng chữ thông tuệ và mẫn tiệp của Đại Việt sử ký toàn thư để có được giây phút trái tim bồi hồi hiểu rằng- rồi sau tình sử Huyền Trân công chúa đã thuộc về châu Thuận và xứ Thuận Hóa, Thị xã Quảng Trị từng là viên ngọc quý trong sính lễ của cuộc hôn nhân có ý nghĩa mở mang bờ cõi quốc gia, là một phần của thực tiễn đời sống ở các địa phương nổi tiếng với “chợ không nói thách, dân không trộm cắp, cổng ngoài không phải đóng, thuyền buôn nước ngoài đều đến buôn bán, trao đổi phải giá, quân lệnh nghiêm cẩn, mọi người ra sức”. Ánh mắt của Hồ Minh Đạo ngời vẻ lấp lánh trước trang sử ghi rõ, sau khi lên ngôi hoàng đế vào năm 1801, vua Gia Long lập dinh Quảng Trị ở phần đất của hai huyện Hải Lăng, Đăng Xương với dinh lỵ Quảng Trị đóng ở làng Tiền Kiên, huyện Đăng Xương. Năm 1809, vua Gia Long cho dời dinh lỵ Quảng Trị tới làng Thạch Hãn, huyện Hải Lăng- tức vị trí của Thị xã Quảng Trị ngày nay và tổ chức xây thành, đắp lũy tại đây. Ở vị trí hội tụ những yếu tố địa lý-lịch sử-văn hóa-kinh tế-quân sự rất quan trọng, dinh lỵ Quảng Trị là đất căn bản, là trọng tấn để vua chúa nhà Nguyễn dựng nghiệp lớn theo lời khuyên Hoành ¸Sơn nhất đ¸i, vạn đ¹i dung thân của bậc hiền triết. Với sự kiện này, năm 1809 được ghi vào sử sách là thời điểm chính thức hình thành và xây dựng dinh lỵ Quảng Trị, mở đầu cho sự phát triển đến Thị xã Quảng Trị hôm nay. Chỉ cho tôi thấy, với tình yêu quê hương xứ sở, bất kỳ ai cũng có thể hiểu biết và ghi nhớ chính xác từng giai đoạn lịch sử của mảnh đất cho mình cuộc sống và biết bao máu thịt ruột rà, Hồ Minh Đạo lần lượt đưa ra những dữ liệu, từ năm 1827 đến 1900, nhiều lần dinh Quảng Trị được đổi thành trấn, tỉnh, được hợp nhất thành đạo rồi lại tách thành tỉnh. Ngày 17/2/1906, toàn quyền Đông Dương đã ra nghị định thành lập Thị xã Quảng Trị là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị. Bài học mà tôi may mắn được tiếp nhận ở đây là, trước những biến động lớn lao của lịch sử và những đổi thay về quy mô hành chính, Thị xã Quảng Trị luôn là miền đất khoan hòa với những con người biết giữ đạo nhân nghĩa cương thường, trung tín. Ở giữa vùng đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng màu mỡ nhưng người dân thị xã Quảng Trị vẫn không ngừng tăng phì nhiêu cho đất sau mỗi vụ trồng lúa, trồng khoai, trồng đậu, trồng ngô, trồng dâu... Và, theo tâm sức vun trồng để góp phần bổ ích cho phong hóa trong muôn một của những con người thuần hậu, Thị xã Quảng Trị đã là nơi đất lành chim đậu như tác giả của sách Ô châu cận lục ghi: Ngoài vườn Thạch Hãn chim về lũ lượt. Bên cạnh đó, tiếp giáp Quốc lộ 1A nối liền hai miền Nam-Bắc của đất nước, ở ven châu thổ sông Thạch Hãn chuyên chở phù sa từ thượng nguồn về trong dòng nước mà không thơm cũng thể hương đàn kết hợp con sông đào Vĩnh Định xuôi ra Cửa Việt, Hội Yên, Đông Hà và cửa Thuận An (Thừa Thiên-Huế), Thị xã Quảng Trị đã nhanh chóng trở nên sầm uất, trở thành trung tâm buôn bán tấp nập và hấp dẫn với nhiều sản vật quý, giao thương thuận lợi. Chính đặc điểm kinh tế-xã hội này đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa ở Thị xã Quảng Trị trong các giai đoạn phát triển của riêng mình hướng tới sự gắn kết và hội nhập với chuỗi các đô thị miền Trung Việt Nam ra đời trước đó như Vinh, Huế, Quy Nhơn, Phan Thiết...
 

Thời gian và ký ức

28/01/2025 lúc 23:02






M





ới đó mà đã hơn 50 năm, kể từ ngày tôi bước vào cổng trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956). Bấy giờ toàn miền Bắc chỉ có 5 trường Đại học, toàn là những trường danh tiếng. Danh tiếng bởi tên tuổi của các vị giáo sư được đào tạo và trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, một bộ phận được tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ ở Pháp về, nhẹ nhàng rủ bỏ vinh hoa phú quí đi theo tiếng gọi của Cách mạng và cụ Hồ. Hà Nội mùa tựu trường Đại học niên khoá 1956-1957 tấp nập lạ thường, nhất là ở các số nhà 19, 21 đường Lê Thánh Tông, nơi tập trung ba trường Đại học: Tổng hợp, Sư phạm, Y dược. Sắc màu Hà Nội sau những năm giải phóng được in dấu ở những em nữ sinh với những tà áo dài tha thướt, đầu tóc “phi - dê”, trên những chiếc xe đạp ngoại, ở những nam sinh vừa ®ç tú tài, con nhà khá giả trong những bộ âu phục chỉnh tề đi xe gắn máy cùng với nếp sống giản dị của hàng nghìn học sinh tốt nghiệp cấp ba phổ thông ở khu Ba, khu Bốn và các tỉnh phía Bắc vừa mới rời mái trường kháng chiến, có cả những cán bộ đương chức và một vài nhà văn đã có tác phẩm. Người Quảng Trị có Hồ Sĩ Thoảng, Hồ Sĩ Khoách, Huỳnh Hữu Bát, Đoàn Nhật Tăng, Lê Mậu H·n (Đại học tổng hợp); Lê Đình Phiên, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Mạnh Duy,Th¸i Duy Ninh, Nguyễn Thanh (Đại học bách khoa)v.v… Về sau đều trở thành những nhà giáo, nhà khoa học thành danh. Tất cả đều cùng một mục đích: Học để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và góp phần đấu tranh thống nhất đất nước. Khoa ngữ văn Đại học tổng hợp, nơi tôi thi vào, có số thí sinh trên 1000. Nhưng chỉ tiêu chỉ tuyển trên 100 có lẻ, đến năm ba (khoá học chỉ 3 năm) thì số thí sinh tốt nghiệp chỉ còn khoảng một nửa. Đủ biết ngay từ bấy giờ ngành giáo dục đã chú ý chất lượng. Mà hàng đầu là chất lượng của các giáo sư. Chỉ kể vài tên tuổi: các giáo sư: Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Hoàng Xuân Nhị, Cao Xuân Huy, Nguyễn Mạnh Tường và nhiều giảng viên, phụ giảng có kiến thức uyên thâm, có năng lực sư phạm tốt. Bên Khoa học tự nhiên có các giáo sư: Nguỵ Như Kontum, Lê Văn Thiêm, Nguyễn Ho¸n v.v… Chủ nhiệm Khoa ngữ văn mấy năm đầu là thầy Đặng Thai Mai. Đến năm thø ba thì thầy Trần Văn Giàu kiêm luôn chức danh chủ nhiệm khoa Văn - Sử. Vào những năm đầu tiên, do tác động ít nhiều của đời sống xã hội, nhất là hậu quả sai lầm của cải cách ruộng đất và chấn chỉnh tổ chức, không khí học đường chưa thật nề nếp. Đại giảng đường số 21 Lê Thánh Tông là nơi: truyền đạt kiến thức, nhưng việc ra, vào giảng đường có lúc cßn lộn xộn, thậm chí có những phát ngôn bừa bãi, tự do quá trớn trong sinh viên. Nhưng nhêuy tín quá lớn của các giáo sư, sự uốn nắn kịp thời của lãnh đạo, lại được sự ủng hộ của phần lớn sinh viên có trình độ học vấn tốt vừa tr¶i nghiệm trong kháng chiến nên dần dần không khÝ học tập trở lại qui cũ. Bấy giờ có thể nói: “Thầy ra thầy, trò ra trò”. Mỗi thầy là một tấm gương đạo đức, một nhà sư phạm mẫu mực. Trong số những bài giảng của các thầy, tôi nhớ nhất là những giờ lên lớp của thầy Đặng Thai Mai. Ông giảng về thơ văn yêu nước đầu thế kỷ XX, về những tác phẩm tiêu biểu của văn học Trung Hoa hiện đại như Truyện A. Q của Lỗ Tấn, kịch Lôi Vũ của Tào Ngu…, nhưng sôi nổi nhất, gây ấn tượng nhất đối với sinh viên là những giờ văn học Pháp, đặc biệt là cách truyền thụ những vở bi kịch cổ điển Lơxít của P. Coóc nây và Angđrơmác của Giraxin. Đặc điểm của những vở này là sự xung đột dữ dội giữa hai gia đình quí rộc theo đuổi dục vọng, hành động kịch diễn ra hết sức căng thẳng. Cách giảng của thầy Mai thật độc đáo, vừa phân tích tâm lý, số phận của từng nhân vật, vừa thể nghiệm như một diễn viên bằng cách vào vai của từng nhân vật. Trong lơxít thầy đã thuộc những câu đối thoại (bằng tiếng Pháp) giữa Simen và Rôđrigơ, đôi tình nhân trẻ; giữa bá tước Đông gormax (cha Simen) và Đông Điegơ (Cha Rôđrigơ). Thầy Nguyễn Lương Ngọc mực thước trong những giờ giảng về văn học Việt Nam (phần văn học dân gian) với những vần ca dao đẹp, những truyện cười di dỏm, những truyện nôm khuyết danh đậm chất nhân văn. Nếu không học thuộc lòng không vận dụng trí nhớ thì làm sao thầy có thể truyền giảng tr«ichảy, ngọt ngào, có mức truyền cảm lây lan đến người nghe!? Nếu như Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường bằng những lời lẽ hùng biện về văn học cổ đại Hy - la, thì Giáo s­ Cao Xuân Huy mùc thước, đỉnh đạc truyền thụ những trí thức về lô - gíc học, một bộ môn l¹ lẫm đối với sinh viên, chặt chẽ, khúc chiết của tư duy với câu nói lặp đi lặp lại của thầy: “Mọi người sinh ra đều phải chết. Khổng Tölà người, Khổng Tử cũng phải chết”. Giáo sư Hoàng Xuân Nhị, bấy giờ khoảng 40 tuổi, nhưng đầu tóc đã bạc, nhiệt tình, tinh thông tiếng Pháp, biết tiếng Anh, thầy còn tự học tiếng Nga; chỉ trên dưới một năm mà đã đọc được một thứ ngoại ngữ Xlavơ khó học. Chúng tôi hỏi bí quyết thành công? Thầy trả lời: Đam mê, lại nhờ có tiếng Pháp tốt, đọc được tiếng Latinh, mà trong tiếng Nga dễ có đến 40% từ nguyên bắt nguồn từ các ngôn ngữ phương Tây. Lại nữa, phải có mục tiêu rõ ràng: học tiếng Nga để truyền thụ kiến thức văn học Nga cho sinh viên - một bộ môn mà Nhà trường phân công cho thầy phụ trách. Khâm phục nghị lực của thầy Nhị, lại say mê văn học Nga, dự các giờ học tiếng Nga, ngay từ năm thứ hai, tôi đi chuyên sâu vào văn học Nga, võ vẽ làm quen với những vần thơ lấp lánh của Puskin, những hình tượng lộng lẫy như Đancô, chim báo bão, chim ưng, những trang thơ bậc thang của Maiakôpxski. Ngày đó, các giáo sư thường khiêm tốn nghĩ rằng, giáo trình chưa hoàn chỉnh, những bài giảng ở lớp chỉ là phác thảo nên đã khuyên sinh viên phải có ý thức tự học, đến thư viÖn, đọc, lấy tư liệu, tập viết những chuyên đề ngắn, chỉ năm, bảy trang. Trong những năm tháng “dùi mài kinh sử” đó, thầy Đặng Thai Mai có công rất lớn đối với khoa ngữ văn: đó là việc vận dụng phương pháp học đi đôi với hành, kiến thức ở nhà trường không tách rời với lao động, sáng tạo ngoài xã hội, điều mà hiện nay người ta gọi là văn hoá tự nghiệm(culturevécue). Tôi còn nhớ, sau những bài giảng về sân khấu truyền thống, thầy đã tạo mọi điều kiện cho sinh viên đến các rạp “Chuông Vàng”, “Kim Phụng” đễ xem diễn trích đoạn các vở chèo nổi tiếng: Quan âm  thị kính, Suý Vân gi¶ dại, Trương Viên, Lưu Bình Dương Lễ v.v… Trước khi xem, thầy thường giới thiệu khái quát nội dung những điểm nhấn của nhân vật và xung đột kịch, các làn điệu chèo…
 

Những ấn tượng từ

28/01/2025 lúc 23:02






1





1h trưa 3-5, nhìn cơn mưa đang vần vũ phía Tây, sóng đang lặng bçng chuyển dựng đứng ào ào vỗ vào thềm đảo Thuyền Chài, đại tá Đinh Gia Thật, Phó chủ nhiệm chính trị quân chủng Hải Quân, trưởng đoàn công tác của hành trình Tuổi Trẻ vì biển đảo quê hương hối thúc đại úy Đặng Ngọc Nam đảo trưởng cho thuyền CQ (một dạng thuyền máy cao tốc đặc chủng) chở anh em trong đoàn ra tàu HQ 957. Chuyến xuồng thứ ba cập mạn tàu HQ 957, gương mặt trung tá Phạm Văn Hưng, thuyền trưởng như gi·n ra: “May quá, chậm chút nữa thì có thể các anh phải ở lại báo cơm trên đảo Thuyền Chài ít ra một tuần nữa. Đài vừa báo có áp thấp nhiệt đới!” Nghe thuyền trưởng Hưng nói, mọi người mới để ý thấy biển đã âm âm một sắc nước thẫm tái, sóng cuộn lên đập ầm ào vào thành tàu nhưng không ai nghĩ là sẽ có một cơn bão đang đến.
   Thật khó có thể tưởng tượng nổi một đoàn đại biểu gần cả trăm người sẽ kẹt lại trên đảo chìm với một ngôi nhà “lâu bền”, chưa nói đến ăn nghỉ, chỉ riêng chỗ để đứng cho ngần ấy con người không bị mưa tạt ướt thôi đã là khó khăn, nói chi chuyện ăn uống vệ sinh cả tuần liền. Hú vía!
Chạm trán bão 
Khi người cuối cùng leo lên tàu, tàu nhổ neo đi tiếp về đảo An Bang thì sóng đã từ cấp 3 cấp 4 bắt đầu dựng lên, những cô gái vừa tươi vui hát hò giao lưu trên đảo Thuyền Chài ban sáng bắt đầu thấy nôn nao, đẩy cửa phòng toa lét đã thấy “dấu vết” mà anh em gọi đùa là cầu thủ đội Arser“nôn” và Liver“fun”. Hành trình từ đảo Thuyền Chài về An Bang tàu đi trong màn mưa mù mịt, tuy nhiên ai cũng nghĩ nếu neo đậu tại đây để sáng mai lên đảo theo lịch trình thì sẽ sóng yên bể lặng như chín ngày trước của hành trình. Từ khơi, nơi tàu neo, nhìn vào An Bang, chúng tôi biết trên đảo đang có hai cán bộ ra lắp ráp hệ thống trụ đèn chiếu sáng đang nóng ruột đợi lên chuyến tàu HQ 957 để trở về đất liền. Hồi chiều “hóng hớt” chỗ ca bin tàu thoáng nghe anh em bảo thời tiết này khó mà vào An Bang, may lắm thì có thể đưa xuồng CQ ra chở thư báo vào, hên lắm thì hai cán bộ lắp ráp trụ đèn năng lượng mặt trời kia có thể lên được tàu. Anh em thủy thủ đoàn quyết tâm lắm, nhưng đến bản tin thời tiết trong chương trình thời sự của đài Tiếng nói Việt Nam lúc 18h cho biết áp thấp nhiệt đới đã mạnh lên, có khả năng thành bão số 1 thì gương mặt mọi người đã không còn hy vọng như lúc chiều. Sóng đã mạnh dần lên, không thể tiếp tục thả neo, nhất là đảm bảo an toàn cho chuyến hành trình đầu tiên này. Đến 21h đêm 3-5, những cơn sóng dội vào thành tàu, tràn qua boong, trên hệ thống truyền thanh của tàu thông báo các thành viên không được đi lại trên boong, men theo thành tàu, mọi sinh hoạt giới hạn an toàn trong các buồng phòng quy định. Lệnh của đất liền đưa tàu về, tạm thời không ghé lên điểm đảo An Bang và khu vực nhà dàn DK ở bãi Tư Chính. Rúc hồi còi dài tạm biệt An Bang, thuyền trưởng Phạm Văn Hưng cho tàu chuyển h­íng về phía Nam-Tây Nam, tránh tầm ảnh hưởng của bão và đề phòng hoàn lưu bão. Suốt đêm 3-5 các khoang buồng trên tàu không còn tiếng hát hò như những đêm đầu. Sóng vẫn chao đảo dữ dội nhưng con tàu vẫn lặng lẽ trong đêm vượt thoát khỏi vùng sóng gió. Năm giờ sáng ngày 4-5, trên hệ thống loa của tàu thông báo các thành viên lưu ý buộc chặt đồ đạc, tàu chuyển hướng gặp sóng ngang sẽ chao lắc gây đổ vỡ. Tôi lần lên cabin tàu, thuyền trưởng Hưng sau một đêm chỉ huy tàu né bão chỉ vào tấm bản đồ trên bàn cabin bảo với tôi: Đêm qua tàu đã vượt hơn 60 hải lý khác với hải trình ban đầu, sau đó mới chuyển hướng về phía Vũng Tàu.
Bình minh ngày 6-5 tàu vào đến khu vực giàn khoan dầu khí mỏ Đại Hùng, những luồng sáng từ ánh lửa, từ ánh điện làm hồng lên cả một vùng biển thẳm. Trong sắc hồng ấy, dường như có pha sắc máu những người lính đã ngã xuống cho chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Như để đền bù cho mấy ngày giông bão, biển hôm nay bình yên đến lạ.
Chiều 6-5, tàu vào đến biển Vũng Tàu, chuyến hải trình đầu tiên của con tàu chở những bạn trẻ mang tên Hành trình Tuổi Trẻ vì biển đảo quê hương đã trải qua những ngày như thế, và với chút giông gió đầu mùa ấy thôi, đã giúp cho mọi người cận cảnh hơn với Trường Sa, với quần đảo bão tố, và thấm thía sự hy sinh của quân dân nơi huyện đảo đầu sóng ngọn gió này....
 

Những gương mặt tỏa sáng

28/01/2025 lúc 23:02






Q





ua đông lại tới xuân. Cùng thời gian dòng đời vẫn đang trôi mải miết. Vào những ngày then chốt của một năm, những ngày Tết, giữa xốn xang tiếng hát nụ cười, đào mai tưng bừng khoe sắc, lòng ta không khỏi chạnh nhớ đến những gương mặt thân yêu, nay đã người còn kẻ mất, đấy là những gương mặt văn hóa, những gương mặt như lửa thắp, tỏa sáng cùng năm tháng.
Giờ đây tôi muốn bắt đầu bằng những kỷ niệm lấy từ quê nhà. Trước tiên xin được kể một đống đất tưởng vớ vẩn mà lại rất lạ lùng. Nó nằm ven quốc lộ một, ở đầu bắc phố Phủ Từ Sơn, mỗi lần qua tôi thường bắt chước khách bộ hành ném thêm vào một cục đất nho nhỏ. Người đời gọi nó là mả ông Đống hoặc là mả thằng ăn mày. Lâu lâu thấy mả thằng ăn mày nổi lên cao quá, công nhân bảo dưỡng đường lại phải gọi nhau ra xúc vứt xuống mấy cái ao. Nhưng rồi rất lặng lẽ chẳng mấy chốc mả thằng ăn mày lại nổi lên, nó không chịu mất đi và nó có tự bao giờ chẳng ai rõ, chỉ biết trước khi có ta đã có nó rồi.
Đóng vai trò chủ yếu trong việc bồi đắp cho mả thằng ăn mày không phải ai khác mà chính là mấy bà quen chạy chợ quanh vùng. Chợ Phủ là một nơi tấp nập, tuần ba phiên, còn gọi là chợ Giầu. Giầu ở đây là giầu cau. Khách đến chợ ai chả mong gặp được sự hòa thuận, ai chả ngại gặp phải sự lừa lọc hoặc ế ẩm thua lỗ. Và thế là mọi người, không rõ tự đâu mà ai cũng đặt lòng tin vào sự phù hộ của thằng ăn mày chết thiêng từ bao giở bao giờ. Người ta cảm thấy có sự may mắn nếu trên đường vào chợ nhớ nhặt một hòn đất, hòn gạch ném lên cái của ấy.
Có một lần nhà văn Nguyên Hồng trên đường về Bắc Giang đã dừng xe đạp bên mả thằng ăn mày. Ông vuốt râu tủm tỉm cười mà hỏi tôi, anh hãy nói xem ngôi mả này giống cái gì trên đời? Tôi lúng túng chưa biết nên trả lời ra sao thì ông đã nói, nó chính là đời thằng nhà văn chúng ta đấy. Đời thằng nhà văn là do quê hương xứ sở nó bồi đắp nên, là do ông trời ông ấy phù chú mà thành, cho nên nó suốt đời phải mang nợ, trả được món nợ đời đâu có dễ, và chỉ có thể trả bằng tác phẩm mà thôi. Nhưng một khi, ai đã trả xong gánh nợ đó thì người ấy sẽ là bất tử.
Cứ theo ý tứ ấy mà ngẫm thì không phải chỉ có các nhà văn, mà còn nhiều người khác nữa, nhiều nhiều lắm, ở mọi lĩnh vực đều có thể thành bất tử. Xin lấy một ví dụ, đó là cuộc đời và sự nghiệp ông Trần Đức Thảo, một tiến sĩ triết học từng sống cùng thời với chúng ta. Ông Thảo gốc làng Song Tháp, xã Châu Khê, Phủ Từ Sơn, xuất thân là con trai thứ trong một gia đình có cụ thân sinh làm viên chức bưu điện, ở quê quen gọi là cụ Hàn Tiến. Con sông đào Ngũ huyện khê chảy vòng quanh làng, nằm ngay trước cổng làng bên gốc đa cổ thụ là một chiếc cầu nho nhỏ có trụ xây bằng gạch, cũng là do gia đình ông bỏ tiền xây tặng dân làng. Ông Thảo không sinh tại làng mà sinh ở Thái Bình, lớn lên ở phố Hàng Đường Hà Nội, là học sinh Lycée Albert Saraut, hết tú tài vào học luật năm sau được chọn gửi qua Paris, vào một trường nổi tiếng có truyền thống, Ecole Normale Supériuere. Những năm về nước lúc ông làm giáo sư, lúc cắm cúi dịch sách, nhưng việc được xem là cốt yếu cho cả một đời là việc viết sách. Chỉ cần viết một cuốn triết học. Mùa hạ 1997 tôi qua Mỹ, một giáo sư người New York đã đưa tôi xem cuốn sách của ông Thảo vừa được dịch từ tiếng Pháp qua tiếng Anh, đó là cuốn Nguồn gốc của ý thức và ngôn ngữ, sách in cùng một lúc ở cả hai nơi, London và New York. Mà cũng chỉ in mấy trăm cuốn thôi. Hỏi vì sao in ít vậy, được cho biết là vì vấn đề mà ông Thảo đề cập cả thế giới lúc này chỉ có chừng vài trăm người đang quan tâm, mà cũng chả phải mọi người đều đã hiểu hết những gì ông Thảo bàn. Sách in ra một nửa dành cho những người đặt mua trước, còn lại đưa vào các thư viện lớn. Đối với ông Thảo đây là cuốn sách mang ý nghĩa tập đại thành. Ông đã viết nó nhiều năm ở một căn buồng khu tập thể Kim Liên vây quanh ông là cô đơn và nghèo túng. Sinh thời Jean Paul Sartre một triết gia của Pháp từng có lời đánh giá: "Trần Đức Thảo ở trong số những người hiếm có, luôn luôn tìm tòi khám phá ở chỗ giáp gianh giữa chân lý và phi lý". Còn ông Thảo thì đã đánh giá bạn mình, Jean Paul Sartre như sau: "Ông ấy, Jean Paul Santre là một triết gia biết đặt ra những vấn đề đáng bàn".
Mấy năm trước tại Paris, vào những giây phút cuối đời, những giây phút hấp hối, khuôn mặt ông bỗng bừng sáng, nửa tỉnh, nửa mơ ông đã nói ra một ý tưởng thật tốt lành về cái đẹp... "ý thức trong lời kêu gọi chính nó đặt ra sự đòi hỏi... Cái đẹp trong sự hoàn thiện những quá trình nghiệm sinh..."...
 
 
 

Cây cầu... cổ tích

28/01/2025 lúc 23:02






V





ậy là sự mong chờ khắc khoải từ bao đời nay của người dân Bắc Phước-Huyện Triệu Phong đã thành hiện thực. Đó là cây cầu Bắc Phước bắc qua sông Thạch Hãn không còn là cây cầu "cổ tích" như người dân nơi đây thường nghĩ, giờ nó đang trong giai đoạn hoàn thiện, những ngày này xe máy và người đi bộ qua lại khá thuận lợi. Đây là những ngày đầu đến Bắc Phước không phải ngồi trên con đò ngang chòng chành với bao nỗi âu lo! Một sự kiện  mang niềm vui "ngập trời" đến với vùng quê Bắc Phước.
Bắc Phước, Triệu Phước, Triệu Phong gồm có ba thôn: Dương Xuân, Hà La, Duy Phiên là một vùng quê sông nước, được bao bọc xung quanh bởi hai nhánh của sông Thạch Hãn. Cù lao nhỏ Bắc Phước có khoảng 300 hộ gia đình với gần 1400 nhân khẩu. Người dân ở đây không biết Bắc Phước có tự bao giờ, chỉ biết đời trước truyền lại rằng: Xưa kia nơi đây là một cù lao hoang vắng, những người dân ở các thôn như An Cư, Lưỡng Kim (Triệu Phước) và những vùng khác đến đây canh tác, dần dà họ đã định cư lâu dài hình thành nên ba thôn cho đến hôm nay. Sống giữa vùng quê sông nước cái khó chồng lên muôn vàn cái khổ, đời sống kinh tế chủ yếu làm nông nghiệp, cây lúa nước một năm chỉ làm một vụ đông xuân nhờ trời...Để đắp đủ cuộc sống, nhiều  gia đình phải chạy đôn, chạy đáo làm thêm nhiều nghề khác...Khó khăn là vậy, nhưng người dân ở đây luôn biết chịu thương, chịu khó nhất là vào những năm kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, Bắc Phước đã một lòng trung kiên theo Đảng, theo Bác Hồ. Hậu quả của chiến tranh để lại cho vùng đất Bắc Phước vô cùng to lớn. Trong tổng số ba trăm bốn mươi chín liệt sỹ và một trăm hai mươi lăm thương binh của toàn xã Triệu Phước, riêng ba làng Dương Xuân, Duy Phiên, Hà La có một trăm năm mươi hai liệt sỹ và bốn mươi mốt thương binh; Trong tổng số mười hai mẹ Việt Nam Anh Hùng đã được phong tặng, có tới tám mẹ ở Bắc Phước. Sau ngày đất nước thống nhất, những cái làng nhỏ bé cuối nguồn sông Hãn vẫn lẻ loi giữa cuồn cuộn sông nước; những con đò dọc, đò ngang ngày ngày lặng lẽ chuyên chở bao lượt khách đến, khách đi trên vùng Bắc Phước. Cùng với nhịp sống của xã hội, sau những năm trong thanh bình, đời sống của người dân Bắc Phước cũng có nhiều đổi thay rõ rệt, nhà xây mái ngói san sát mọc lên, đường đi lối lại được bê tông hóa, ánh điện quốc gia đã vượt sông thắp sáng cho mọi nhà từ nhiều năm nay...Âu đó cũng là sự phấn đấu vượt bậc của người dân và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với mảnh đất biết bao khó khăn và mất mát nhiều trong chiến tranh. Đặc biệt vào cuối năm 2008, một sự kiện đã làm cho người dân cù lao Bắc Phước vui mừng đến "nghẹt thở", đó là lễ khởi công xây dựng cầu Bắc Phước. Một cây cầu mà người dân nơi đây không bao giờ dám nghĩ đến, chỉ là trong ký ức về một cây cầu "cổ tích". Cầu Bắc Phước có chiều dài trên ba trăm bảy mươi ba mét, gồm mười một nhịp mỗi nhịp dài ba mươi ba mét, khổ cầu rộng bốn mét, riêng nhịp tránh ở giữa rộng sáu mét, gầm kết cấu chữ L bê tông cốt thép, có hai mố và mười trụ cầu bê tông cốt thép, tải trọng thiết kế HL 93...với tổng mức vốn đầu tư gần ba mươi tỷ đồng; Công ty cổ phần công trình đường sắt và Công ty cổ phần Thành An đảm nhiệm thi công.
Những nhát xẻng khởi công cầu Bắc Phước cho đến nay, trừ những ngày người làm cầu nghỉ, ngày nào cũng vậy có nhiều người dân Bắc Phước  kéo nhau tụ tập đến khu vực xây cầu để xem công nhân thi công, cùng với bao câu chuyện nhân tình thế thái, nhất là những người cao niên như ông Binh (thôn Dương Xuân), hay ông Bích, ông Vệ, ông Giao...(thôn Hà La), họ có mặt thường xuyên  đến nỗi người dân ở đây ví von: "Đó là đội giám sát thi công cầu". Cùng với những câu chuyện rôm rả mang theo hơi thở của tâm trạng vui sướng bởi họ được chứng kiến cây cầu mơ ước lớn dần trên sông  từng ngày. Không những thế, người dân nơi đây thật tốt bụng, họ đến đây không những động viên  người làm cầu quên đi những cái mệt nhọc, dân làng ba thôn đã có lần góp tiền mua luôn cả con lợn để tặng cho những người làm cầu liên hoan.
Sau hơn một năm thi công, đến nay cầu Bắc Phước cơ bản hoàn thành, những phần việc còn lại chủ yếu là hoàn thiện như gắn lan can cầu, đắp đường hai đầu cầu, thảm nhựa mặt cầu...Đến giai đoạn này, xe máy đã qua lại cầu, những ngày đầu đến Bắc Phước không phải ngồi trên chiếc đò nhỏ bé ngày nào nữa, chấm dứt một thời với bao đỗi nhọc nhằn khi qua về Bắc Phước phải đợi đò, hay sợ hết giờ đò chạy, không còn cái cảnh "Qua sông phải lụy đò" như anh Dương Hùng, một người con quê hương đi xa nhiều năm nay đã có những câu thơ thật tâm can của cảm xúc: "Quê tôi sông nước tứ bề/ Lại qua cách trở sang về khó khăn/ Không về lòng những ăn năn/ Về thì mang cả nhọc nhằn về theo… Qua sông hết lụy con đò/ Cầu đà  nối bến quê nghèo đổi thay/ Ngàn đời mới có hôm nay/ Ngỡ mơ nhưng đã thật rày đó thôi/ Mừng vui lòng dạ bồi hồi/  Ơn Đảng, ơn Bác quê tôi sáng bừng"...
 
 
 

Chòi sĩ tử

28/01/2025 lúc 23:02






C





hòi canh cá nằm giữa cánh đồng làng. Nơi ấy, một phần đời tôi đã sống và lớn lên nhờ  hương sữa lúa mùa kết chẹn; lớn lên theo tiếng quẫy thở của những chú cá buổi sớm mai; lớn lên cùng nhịp điệu ánh mặt trời, mỗi bình minh hay hoàng hôn đều đượm một sắc vàng chín tới.
1. Giữa cánh đồng Mặt Bằng có cái hố bom rộng, nước lướt phẳng, sóng thi thoảng mới gợn nhấp nhô khi có gió tạt qua. Nhiều khi tôi nghĩ, nhẽ nào đấy là một chén rượu trường thọ mà Ngọc Hoàng nhỡ tay đánh rơi trong một cơn say trên thượng giới xuống đây? Qua thời gian, men rượu phả lên trời cho mây uống rồi kết thành sắc ửng hồng sớm mai hay là màu vàng rộm chiều xuống, mùi rượu nhạt dần thành một thứ nước trong, và một ít hương thơm vẫn còn lưu mãi đến bây giờ khiến tôi chếnh choáng.
Ông nội be bờ đất xung quanh hố bom. Thả vài chôm nè vào giữa như làm dấu thánh với đất với trời, rằng đây là nơi tôi mưu sự. Tháng mười âm lịch bắt đầu mua cá giống từ thị xã Quảng Trị về thả. Ông chặt tre dựng bên hồ một cái chòi nhỏ, vách gót, mái lợp lá tàu dừa. Bên cạnh chòi trồng một cây chanh leo, loại chanh này rất hiếm, nó thuộc chi Lạc Tiên trong giới thực vật. Vài tháng sau, dây chanh bò phủ kín cái chòi, xung quanh và cả trên mái chằng chịt thân với lá đan xen nhau rườm rà. Hoa chanh leo nở ra tím nhạt phớt phơ tựa màu hoa cà. Rồi những quả chanh tròn to cỡ nắm tay đậu chi chít. Chim sẻ đồng sà xuống gõ mỏ sừng lách tách vào lớp vỏ quả chanh như sư chùa gõ mõ tụng kinh. Cảnh yên lặng rất thiền! Trong chòi kê một chõng tre, cái chạn để ít đồ đạc thô sơ và một cây đèn dầu hoả.
Những năm học phổ thông, tôi thường cắp mấy cuốn sách men theo chân ruộng, băng qua đồng ra chỗ chòi vừa canh cá vừa học bài. Đường chân ruộng cỏ cỏ lớp lớp lót lối người đi, xanh mơn man mềm nhũn nhại xát vào da thịt, sương có khi biếc nắng mà hồng theo một cách trong veo. Sao thứ cỏ ấy lại đằm thắm và có ma lực đến thế! Cứ như muốn dính chặt bước chân người ta vào đất. Quãng đường từ nhà ra chòi không xa lắm, nhưng mỗi lần đi qua tôi đều phải mất khá nhiều thời gian, bởi cỏ cứ khiến chân tôi dùng dằng nửa muốn bước đi nửa du di đòi nán lại. Và trời thì như kéo ngược cái nhìn của tôi lên mà trát vào khuôn mặt non nớt những phả sương mùa xuân. Một thảm nhiễu hoa dệt từ những triền thoai thoải lúa tháng ba xoáy vào tôi niềm xôn xao lay động đến tận sâu thẳm tâm hồn. Mặt trời ngoi lên từ phía đông như quả gòn lửa mới bùng cháy từ mép manh thảm hoa ấy. Bởi thế mà người ta hay gọi làng với tiền tố "mảnh": mảnh làng.
Ra đến chòi, tôi ngồi xếp bằng trên cái chõng tre, đặt mấy cuốn sách gần khung cửa sổ cho sách hớp sương. Xung quanh chòi miệt mài những thửa ruộng xếp kín mép vào nhau như những bản tranh dân gian giấy dó xứ Bắc đem ra phơi, từng lát từng lát liếm mép hôn nhau điệu đà. Tôi tự thưởng cho mình những phút giây ngắm cảnh và rồi bị mê hoặc đi bởi cái lãng đãng toát lên từ sự bình dị nơi làng quê của mình.
Tôi  ở nơi chòi ấy suốt ngày, có khi quên bữa thì ông nội bưng cơm ra tận nơi cho. Những tháng ngày  ở đó, tôi ngồi đọc sách và đọc lại  chính bản lý lịch của mình: Kẻ quê mùa khai sinh bởi hạt lúa. Tôi cứ ước cho mình được ở đây mãi mãi. Gió sẽ trải chiếu cho tôi ngả lưng. Mây sẽ lót gối cho tôi tựa đầu. Chim vỗ cánh cắp giấc mơ bay trước để tôi mê mải đuổi theo. Và nếu sách hết thì tôi sẽ đọc cánh đồng. Không hề gì! Ở bất cứ đâu người ta vẫn có thể học được, miễn là ta phải hiểu ngôn ngữ của nó. Bản khai sinh của tôi được viết bởi hạt lúa, và hạt lúa chính là ngôn ngữ của cánh đồng. Ý niệm ấy tôi nhận được từ một người nông dân ở làng, nhân một lần ra đồng vãi thóc giống, bác đã nói với tôi rằng: "Cậu học bài cũng như tôi gieo hạt". Là sao nhỉ? Tôi giữ mãi thắc thỏm này cho đến khi được biết một câu ngạn ngữ Gruzia: "Học tập là hạt giống của kiến thức, kiến thức là hạt giống của hạnh phúc". Chao ôi, một người nông dân tưởng như không mấy ngày được đến trường lại có thể thấu triệt sự học với một niềm kiêu hãnh như thế! Người không học như cánh đồng không có hạt giống, tức là không thể tươi vui. Chính bác nông dân ấy đã đặt tên cho cái túp mái lá này là "chòi sĩ tử". Ngày xưa trò Siêu cũng từng ngồi nơi một chòi lá như thế này để học bài. Chàng buộc một sợi dây trên xà mái chòi thả xuống và cột túm lấy chỏm tóc, nhỡ khi nào ngủ gục thì sợi dây sẽ căng giật cho tỉnh táo. Nhờ cách học ấy mà trò Siêu đã trở thành danh sĩ Nguyễn Văn Siêu uyên bác lẫy lừng một trời Kinh Bắc thế kỷ mười chín, người đời vẫn xưng gọi Thần Siêu đấy thôi....
 
 
 

Cổ tích tháng tư

28/01/2025 lúc 23:02






T





háng Tư năm 2004.
Có một cựu chiến binh quân giải phóng đường 9 đã tìm thấy tại núi Hồ Khê thuộc xã Cam Tuyền (huyện Cam Lộ), một hố chôn tập thể 13 bộ hài cốt mà những vật dụng kèm theo cho thấy đó là hài cốt các chiến sỹ quân giải phóng. Từng có nhiều năm gắn bó, hiệp đồng tác chiến, chia sớt gian nan, xương máu với các đơn vị chủ lực trên địa bàn chiến trường Gio Cam, người cựu chiến binh quân giải phóng đó đã nghĩ ngay 13 di cốt Liệt sỹ được tìm thấy  là  một phần trong số  nhiều đồng đội thuộc trung đoàn 27 Xô Viết Nghệ Tĩnh (mật danh chiến đấu là đoàn Phan Rang, nay là Trung đoàn 27 Triệu Hải - Sư đoàn 390- Binh đoàn Quyết Thắng) đã hi sinh trong chiến dịch đánh bộ binh cơ giới tại Hồ Khê tháng 4/1969,  và bị địch dùng xe ủi vùi thành hố chôn tập thể.
Vâng, người cựu chiến binh đó chính là ông Nguyễn Minh Kỳ, nguyên cán bộ lãnh đạo huyện Cam Lộ và sau là Phó Bí thư - Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị… Thương nhớ những đồng đội từng sinh tử chiến đấu, hoá mình vào đất quê hương, ông cùng vợ đã  phát nguyện đầu tư tiền của để xây dựng tại đỉnh Hồ Khê một nhà bia ghi danh vong linh các Liệt sỹ yêu quý. Và với hơn 30 triệu đồng, cùng công sức ngược xuôi trông nom của cả gia đình... ngày 12/1/2006, công trình nhà bia ghi danh Liệt sĩ Hồ Khê đã được khánh thành trong ấm áp khói hương của  đông đảo đồng bào, chiến sỹ huyện Cam Lộ và lãnh đạo Đảng, chính quyền nhân dân tỉnh Quảng Trị. Để rồi tiếp những ngày sau, dẫu heo hút nơi chiến trường xưa, những đồng chí, đồng đội trung đoàn 27 Triệu Hải đã tìm về, thêm một nén hương cho bạn bè khuất núi.
Tháng Tư năm 2007.
Có một người lính Trung đoàn 27 Triệu Hải trở về đỉnh Hồ Khê. Sau một tuần nhang, người lính đó cứ lặng lẽ ôm bó nhang lớn vừa thắp, bước lên gò đất cao mà vái lạy bốn phương rừng. Những mong chút khói hương lòng theo gió mà tìm đến những di hài đồng bào, đồng đội đang ẩn khuất đâu đó nơi đầu suối cuối rừng...  
            Vâng, một thời gian nan trận mạc, trong cuộc chiến sinh tử khốc liệt, ngoài Trung đoàn 27 Triệu Hải, còn có nhiều đồng bào, đồng đội các đơn vị bạn, từ chủ lực đến bộ đội địa phương, dân quân du kích, đã cùng đồng cam cộng khổ, gánh chịu gian nan và hy sinh xương máu cho sự nghiệp chiến tranh giải phóng. Cũng như những Liệt sĩ của trung đoàn, qua cuộc chiến dầm dã trong mưa bom bão lửa, nhiều đồng đội, đồng bào chúng ta đã hy sinh và phần nhiều các di hài đồng đội các đơn vị, địa phương đã và đang ẩn khuất đâu đó trên khắp nẻo đầu sông, cuối rừng, chưa có cơ hội được tìm thấy, đưa về gần với gia đình quê hương...
Đồng đội đâu cũng là đồng đội, nhói trong niềm thương nhớ thành một ý định muốn tôn tạo, mở rộng không gian nhà bia thành khu lăng bia Hồ Khê làm nơi thờ chung, để mỗi mồng một ngày rằm... sẽ là chốn đi về, hội tụ của vong linh các đồng đội đang ẩn khuất đâu đó nơi đầu suối, cuối rừng...
Đem tâm nguyện này bàn với ông Kỳ và các đồng đội trung đoàn 27 Triệu Hải, người lính nhận được sự đồng thuận cao của các đồng đội, cùng chung lòng, người năm chục ngàn, người tháng lương, và thêm số tiền 50 triệu đồng từ quỹ thiện tâm của tập đoàn Technocom (Hà Nội) phát nguyện ủng hộ...Giữa tháng Tư năm 2009 này, công trình nhà bia ghi danh Liệt sỹ đã thành khu lăng bia, theo đúng nghĩa là "ngôi nhà" chung với đầy đặn bát hương cho vong linh đồng bào, chiến sỹ đi về...Và thể theo nguyện vọng của đông đảo các đồng đội trung đoàn 27 Triệu Hải và các đồng đội từng chiến đấu trên mặt  trận Quảng Trị... Ngày khánh thành "ngôi nhà" chung cho các đồng đội khuất rừng sẽ là cái đích cho một cuộc hành hương truyền thống về chiến trường xưa với tên gọi "Cuộc hành hương làm ấm rừng đồng đội". Một cuộc hành hương hoàn toàn tự nguyện, và cũng hoàn toàn tự túc. Theo đó, mỗi người lính ngày về sẽ vẫn ba lô, tăng võng. Để làm ấm rừng đồng đội, sau những nghi lễ hương hoa, đặt đất và nước sông quê, trồng cây... theo chương trình "đưa quê hương vào với hương linh đồng đội"... Những người lính trung đoàn 27 Triệu Hải cùng các cựu đồng đội mặt trận Quảng Trị sẽ có một ngày đêm trọn vẹn với những bữa cơm thời chiến, một đêm ngủ rừng quanh khu lăng bia Hồ Khê. Và hai ngày tiếp theo, đoàn hành hương sẽ được hoá mình trở lại một thời trận mạc gian nan mà ấm tình đồng đội, nghĩa đồng bào khi được ăn, ở với đồng bào, đồng đội Quảng Trị qua chương  trình "Đón bộ đội về làng", đêm "Một thời trống trận Gio An"... trước khi kết thúc chương trình bằng một lễ thả hương hoa với nghi lễ hoà nước sông quê vào lòng Thạch Hãn...  
 
 

Thành Cổ - Miền tưởng vọng

28/01/2025 lúc 23:02

 





H





ai mươi năm trước, những ngày này tỉnh Quảng Trị vừa được tái lập sau khi tách ra khỏi tỉnh chung Bình-Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế). Ngày ấy, một phóng viên báo Quảng Trị đã về thị xã Quảng Trị - từng là tỉnh lỵ của Quảng Trị gần hai trăm năm với cuộc chiến khốc liệt mùa hè 1972 khiến thị xã thành bình địa. Bài báo đầu tiên chị viết về Thành Cổ khi đó đã giật một cái tít rất ấn tượng: “Thành cổ hay Thành cỏ".
Mà cỏ thật, cỏ ngút ngàn thị xã, cỏ tràn ngập bờ thành hoang phế, cỏ bời bời trong khuôn viên thành xưa với chu vi gần 4 cây số mà xưa kia từng có dinh án sát, lãnh binh, nhà đoan, thương cuộc…
Cỏ trùm lên bao nhiêu dấu yêu thị xã từng có một quá vãng đẹp như một bài cổ thi viết trên tờ giấy hoa tiên trải mềm dọc theo dòng Thạch Hãn. Sau năm 1972, tất cả chỉ còn là gạch vụn và cỏ dại. Thành Cổ được người dân cất mất dấu “^” và mặc nhiên được gọi với một tâm trạng nửa như hờn dỗi, nửa như thân phận…
1. Số phận đã đưa đẩy tôi về làm cư dân của thị xã này gần 7 năm với hơn hai ngàn ngày sống ở đó. Ký ức về thị xã hiền thương ấy bao giờ cũng khiến tôi nhớ đến những con phố đã ám ảnh trong nhiều câu thơ, những khúc ca nghiêng trĩu nhung nhớ một khung trời bình yên trong những hồi ức của những lớp anh chị học trò Trường trung học Nguyễn Hoàng. Và cũng chính từ đây tôi đã tìm thấy, hình như mảnh đất này luôn có sứ mệnh là nơi để người ta tưởng vọng. Cả Thành Cổ này là một miền tưởng vọng xuyên suốt lịch sử của mình.
Cho đến một ngày tôi phát hiện có một khoảng đất tên gọi là Nghĩa Trũng đàn nằm cách căn nhà cũ của tôi ở thị xã Quảng Trị không xa lắm, chỉ có một quãng đồng, bên kia con kênh Nam Thạch Hãn, và tôi sửng sốt khi nghe nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng đấy là một trong những nghĩa trang liệt sĩ đầu tiên của nước ta...
Lần giở những sử liệu mới hay tấc đất nào nơi Thành Cổ này đều quá đỗi thiêng liêng. Một sự ngẫu nhiên của lịch sử chăng ? Hay có sự sắp đặt nào mà mảnh đất Quảng Trị này luôn là nơi những liệt sĩ chọn để nằm lại? Nghĩa Trũng được lập từ 1872, đúng 100 năm sau, ngay trên vùng đất với ngôi làng có Nghĩa Trũng này một cuộc chiến đã diễn ra ròng rã 81 ngày đêm để rồi đi vào lịch sử như một trận chiến khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ: Thành Cổ Quảng Trị - mùa hè đỏ lửa 1972
Bây giờ thì không ngày nào không có những đoàn khách đến thăm viếng, tưởng niệm những liệt sĩ ở Thành Cổ, ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, Đường 9...những nghĩa trang cấp quốc gia với cả vạn nấm mồ, nhưng ít ai biết Nghĩa Trũng nơi góc làng Thạch Hãn ấy cũng là một nghĩa trang quốc gia của những nghĩa binh Tây Sơn áo vải cờ đào đã ngã xuống trong trận chiến đại thắng quân nhà Thanh mùa xuân Kỷ Dậu (1789) đã được quan Tuần Vũ Hà Nội người họ Hoàng làng Bích Khê (Quảng Trị ) đưa hài cốt vượt dặm trường từ đất Bắc vào nằm lại chốn này.
Câu chuyện về Nghĩa trũng cũng thật dài...
Nguyên ủy của Nghĩa Trũng bắt đầu từ ngài Hoàng Hữu Lợi, người làng Bích Khê (nay là xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, Quảng Trị), tước Trung Nghị đại phu Phó đô ngự sử, thường nằm thấy những nấm mồ vô chủ nằm dọc theo sông Thạch Hãn vào mùa mưa lũ thường bị xói lở trôi lộ hài cốt, ông mới động lòng từ tâm bỏ tiền nhà ra mua mấy sào ruộng của làng Thạch Hãn để làm nơi quy táng những hài cốt phận bạc kia. Cũng là chuyện làm việc Nhân, trồng cây Đức cho con cháu đời sau như bản chất thuần hậu của người dân vùng Thuận Quảng. Đấy là năm Tự Đức thứ 25 (1872). 
Rồi cứ thế, cái hành trình của những lưu dân Nam tiến, bỏ thây nơi bãi lau biền cỏ bên dòng Thạch Hãn nhất loạt đều được con cháu của cụ quy về nơi Nghĩa Trũng này, chăm lo hương khói. Nếu chỉ thế thì Nghĩa Trũng cũng chỉ là một “nghĩa địa tình thương” chứ đâu thể gọi là “Nghĩa trang liệt sĩ”? Nhưng đến đời con của cụ Hoàng Hữu Lợi, vị trưởng nam của cụ là Hiệp biện Đại học sĩ, Bình Như Hoàng Hữu Xứng sau này làm quan Tuần vũ Hà Nội, nhiều lần đi hành hạt quanh thành gặp rất nhiều mộ hoang vô chủ, hỏi han kỳ lão quanh vùng mới hay rằng đấy là mộ của những nghĩa quân Tây Sơn miền Thuận Quảng theo vua Quang Trung Nguyễn Huệ ra chinh phạt quân Thanh đã bỏ mình nằm lại.
Hàng chục năm trôi qua không ai khói hương chăm sóc nên thành mả hoang. Quan Tuần vũ Hoàng Hữu Xứng đã thuê người cất bốc, thu nhặt hài cốt hơn 600 bộ rồi thuê ghe bầu ngược vào Thuận Quảng, đưa về mai táng ở Nghĩa Trũng ở quê ông, mảnh đất mà thân phụ của ông đã mua. Như thế, Nghĩa Trũng làng Thạch Hãn đã trở thành một “nghĩa trang đặc biệt” với phân nửa mộ phần là những vong hồn bơ vơ trong trời đất, phân nửa còn lại là những nghĩa binh vô danh Tây Sơn áo vải cờ đào...

Bác ơi, con nhớ Bác

28/01/2025 lúc 23:02






T





hời tôi còn bé chắc chắn cũng như bao đứa trẻ khác, rất tin tưởng vào mẹ. Mẹ không chỉ là khối tình vĩ đại tôi rất thương yêu, kính trọng. Mẹ còn là niềm tin có thể chở che tôi trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ thế lực nào. Bởi thế có ai đe nẹt, tôi đều dọa họ “Cháu sẽ mách mẹ cho mà coi’.
Tôi đâu biết rằng: Mẹ tôi là một người đàn bà góa với một đàn con thơ dại quá nhỏ yếu và mong manh trong cuộc đời đầy rẫy áp bức cường bạo bây giờ.
Một lần mẹ tôi lên chợ Đông hà bị hai vợ chồng hung hãn, là mặt xông vào đấm đạp chỉ vì theo họ chửi: Mẹ tôi đã mua tranh mớ cá chợ mai để bán chợ chiệu. Một lần khác đang giữa buổi trưa chợ bỗng nghe nhiều người đàn bà cùng hét: Tây! Tây! Mẹ tôi dắt tôi chạy cuống cuồng giữa những người náo loạn. Một lũ Tây đen thua trận trở về, uống rượu say, xô vào chợ giằng xé, hãm hiếp phụ nữ...

« 6061626364 »

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

10/11

25° - 27°

Mưa

11/11

24° - 26°

Mưa

12/11

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground