Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 29/03/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Bút ký

Phóng sự ảnh

Tháng chạp mưa phùn

11/07/2023 lúc 08:57






C





hỉ hừng lên được chừng giữa buổi sáng, quá trưa sang chiều bầu trời đã chuyển sang xám xịt. Rồi gió về, rồi mưa bay. Mưa như rây bụi. Mưa chếch theo chiều gió, vát chéo một góc nghiêng. Bầu trời, và cả gió cả mưa, xóm làng đã xám với những mái tranh đìu hiu ảm đạm càng như ảm đạm thêm trong mưa bụi. Cánh đồng trở nên mờ ảo xa xôi. Những bóng người cặm cụi mờ dần ngoài đồng xa. Người dong trâu bò, người gánh gồng, và cả lũ trẻ với áo xống tơi tả liêu xiêu bước trong gió mưa thốc ngược. Đám trẻ chăn trâu kéo nhau tìm gò bụi tránh những cơn gió hùn hụt thổi. Chúng rủ nhau vơ rơm rạ đốt lửa chống rét. Những bộ mặt tím tái. Tiếng hít hà run rẩy. Mấy đứa tát cá dưới mương ham con rô con diếc, quần áo te tua bê bết run lập cập đứng nhìn làn khói quằn quại, ngọn lửa lật phật ấm áp với sự chọn lựa dùng dằng...
Lúc này hành tỏi rau diếp xà lách thì là... bao nhiêu thứ ngoài vườn xanh um mơn mởn. Những giọt nước li ti như hạt sương lăn tròn trên những tàu rau làm cả vườn ánh lên như thoa mỡ. Đàn gà con nghe tiếng tục tục của mẹ chui qua mấy phên rạ rào vườn chạy vội  vào phía sau đống rơm tránh rét. Mẹ gà xoè rộng đôi cánh ấp trọn cả đàn con. Làng xóm nhắc nhau phải chống rét cho trâu bò. Trước lúc đi cày buổi chiều, bố tôi tủ lên lưng trâu tấm bì rồi lịch kịch dong trâu, miệng tự nhắc mình phải nhớ che thêm phên tranh cho cái ràn trâu....
Ai mà chẳng trải qua những ngày tháng Chạp, nhưng có được cảm giác rét mướt của mưa phùn gió bấc thì lại không phải là tất cả. Cái thiếu đói, cái rét mướt của thuở nghèo như một lời nhắc nhớ tới quê hương xứ sở. Tuổi thơ tôi đã trải qua những tháng chạp rét mướt mưa phùn gió bấc. Hễ mỗi dịp tháng chạp đến là trước mắt tôi vẫn như hiện ra vườn rau xanh mướt, cánh đồng gầy guộc ảo mờ. Và tất cả đã đọng mãi trong thẳm sâu tâm khảm khó nói thành lời. Và những ngày mưa phùn gió bấc đã như là một phần trong hình ảnh quê hương. Trong những năm tháng đi xa, tôi mang theo hình ảnh làng quê với dáng hình của mẹ liêu xiêu bước đi trong chiều đông rét mướt. Hình bóng Người như con cò lặn lội, hết chăm chồng rồi đến nuôi con...
Và tôi cũng đã có một mùa đông không có mưa phùn gió bấc. Tham gia chia lửa với chiến trường nước bạn năm ấy, tháng Chạp về và chúng tôi biết rằng quê hương đã sắp sửa hết đạn bom, làng xóm sẽ chìm trong mưa lạnh. Vậy mà, cũng thời khắc ấy, cả núi rừng bên này cây đã rụng lá và bầu trời suốt ngày ong ong mây mù như khói loãng. Rừng cây trở nên khẳng khiu xương xẩu. Chẳng gió chẳng mưa, những đoạn đường lấm bụi, những đoàn quân nhễ nhại mồ hôi.  Chỉ đêm về mới có rét, cái rét khô khan buốt đến nỗi nứt nẻ cả chân tay. Cả đơn vị trú quân trong hang, cách con đường chiến dịch một quãng rừng xào xạc lá khô. Nơi đây xa quê mẹ, chúng tôi chỉ liên hệ với quê hương bằng sóng của đài tiếng nói Việt Nam. Và trong cái hang sâu lạnh lẽo mà ấm tình đồng đội ấy chúng tôi đã có cả tiếng đồng hồ phập phồng khắc khoải. Đang háo hức nghe tiếng nói quê hương thì đột ngột tiếng đài im bặt. Cả tiếng đồng hồ không ai nói nên được một lời. Một không khí nặng nề đến nghẹt thở. Giặc đã dùng pháo đài bay đánh vào đài Tiếng nói Việt Nam. Quê hương đất nước sắp được hoà bình, ấy vậy mà...Nhưng rồi tảng đá đè nặng lên lồng ngực mỗi người cũng được hạ xuống bởi tiếng nói từ trong chiếc Ra đi ô cũng đã cất lên. Chúng tôi hò reo, chúng tôi nhảy múa và nghe như rừng cây cũng đang tí tách cụ cựa nứt chồi. Và sáng ra, ô kìa, cả rừng cây trong mơ màng sương khói đã như được quét lên một lớp xà cừ. Mỗi đứa chúng tôi đi làm nhiệm vụ ngây ngất như say và cảm thấy đang rất gần quê mẹ. Và kì lạ nữa, trong tôi như bắt gặp hình ảnh gió bấc mưa phùn. Hoá ra những ai nặng lòng với quê hương thì dù ở đâu vẫn có quê hương ở đó. Quê hương là cánh đồng mờ ảo trong sự đổi mùa. Quê hương là luỹ tre với tiếng gà cục tác, mẹ cha ta cặm cụi tảo tần...
 
 
 

Sống tận cùng với đất

11/07/2023 lúc 08:57






N





ăm 1980, để đi thăm gia đình của một người thân, lần đầu tiên tôi về Gio An. Bấy giờ, đường lên Gio An phải lội qua một vùng đồi trống huơ trống hoác, lâu lâu lại bắt gặp những cụm dây thép gai bùng nhùng lẫn giữa những bụi sim móc. Tàng ẩn dưới mặt đất là bom mìn và vật liệu nổ chưa rà phá được. Những bảng cảnh báo nguy hiểm, một cái đầu lâu và hai cái xương người bắt chéo trông rờn rợn, nổi cả da gà.
Dấu tích chiến tranh cho tôi nhớ lại một thời với bao nhiêu sự tích đau thương và anh dũng của nhân dân vùng miền tây Gio Linh, trong đó có nhân dân Gio An đã kiên cường, sống chết vì mảnh đất quê hương. Một cái xã nhỏ chỉ vẻn vẹn 2711 héc ta đất với hơn ba ngàn dân trong mấy năm trời đã bị cày xới tung tóe lên trong khói lửa chiến tranh. Vùng đất ấy được lịch sử xã ghi lại: là nơi tập kết quân và triển khai những mũi tấn công trên toàn địa bàn của quân giải phóng Mặt trận B5. Vùng đất ấy cũng được huyện Gio Linh chọn làm căn cứ của huyện, bị bom Mỹ chà đi xát lại không còn một dấu tích. Nhân dân Gio An phải đương đầu với một lực lượng địch đông và với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại. Tháng 5 năm 1967, trước sự càn quét điên cuồng của giặc Mỹ, ta chủ trương đưa dân sơ tán ra Bắc thực hiện vườn không nhà trống vừa giảm tổn thất cho nhân dân. Nào ngờ địch biết được tập trung lực lượng dồn dân vào trại tập trung, nhân dân không cam chịu đã tổ chức vượt tuyến. Và cái ngày đau thương 20 tháng 5 năm 1967 ấy đã đến, địch cho máy bay ném bom đánh phá vào giữa sông trong lúc nhân dân đang vượt sông để ra miền Bắc. Máu và thây người đỏ chật dòng sông. Cái ngày đau thương đó, giặc Mỹ đã giết hơn năm trăm dân thường của xã Gio An. Gio An trở thành vùng trắng không dân, chỉ còn 96 cán bộ đảng viên và du kích tập trung ở hai thôn An Nha và Phường Xuân để kìm chân giặc. Một trăm phần trăm nhà cửa bị phá huỷ, song tuyệt nhiên chẳng thể hủy diệt nổi sự sống. Người chết tìm về với đất, người sống cũng lặn vào đất đai mà tồn tại để chiến đấu và chiến thắng. Chín mươi sáu cán bộ, chiến sĩ, du kích càng kiên gan, quyết tâm giữ đất quê bằng “Bám thắt lưng giặc mà đánh”; Đề ra khẩu hiệu có tính mệnh lệnh: “Dỡ nhà làm hầm trú ẩn”, “Nhà che nắng che sương, hầm che xương che thịt”; “Một tấc không đi, một ly không rời”;…Biết bao nhiêu người con ưu tú của quê hương Gio An, của mỗi vùng miền trên đất nước đã ngã xuống để giữ lấy mảnh đất này. Đồng chí Trương Thanh Hải, xã đội trưởng, đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Anh đã kịp lắp lê đâm chết năm lính Mỹ trước khi gục xuống dưới gốc đa làng. Anh hùng Cao Như Thiêm chiến đấu bị thương vào tay và bị địch bắt, vẫn anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng trước khi hy sinh. Anh đã gửi lại lời thề và niềm tin vào thắng lợi: “Việt Nam nhất định thắng”, “Hồ Chí Minh muôn năm”…
Quê hương sạch bóng quân thù, nhưng cái giá của độc lập tự do đã phải đổi bằng “một tấc non sông, một dòng máu đỏ” của nhân dân. Máu xương, nước mắt, mồ hôi của nhân dân Gio An đổ xuống trong chiến tranh đang được đền đáp. Nhân dân đang ngày càng nhanh nhạy nắm bắt chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước để mở hướng đi cải thiện đời sống, và từng bước làm giàu có đời sống của mình. Họ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, đột phá trong cách làm ăn, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nhất là từ khi có Nghị quyết 03 của huyện Gio Linh về phát triển vùng kinh tế gò đồi, triển khai các dự án 327, cao su tiểu điền, thì vùng đất này cây cao su đã làm chủ, làm đổi đời người dân ở đây. Những năm gần dây xã Gio An đã có nhiều ngôi biệt thự mọc lên, điều đó nói lên rằng thu nhập từ trang trại, từ cây cao su đã đưa người dân đến chỗ khá giả, cuộc sống ngày một tươm tất. Trên mảnh đất từng được mệnh danh là “vành đai trắng” với ngổn ngang bom đạn này, những người cựu binh năm xưa và hôm nay trong gian khổ khó khăn càng sáng lên phẩm chất anh bộ đội Cụ Hồ với những ước mơ táo bạo đã lập nên những trang trại phát triển kinh tế làm giàu cho gia đình cho xã hội. Họ đã biến những vùng đất, đồi trọc ở miền tây Gio Linh thành những cánh rừng xanh bát ngát, tận dụng được nguồn tài nguyên dồi dào từ lòng đất....
 
 
 

Về miền "Thánh địa" của cây trà Việt Nam

11/07/2023 lúc 08:57






D





ù đã từng nhìn thấy những cây chè ấy trên ảnh, trong phim, nhưng khi tới xã Suối Giàng (huyện Văn Chấn - Yên Bái) áp tay lên  lớp địa y phủ mốc thếch trên thân cây chè cổ thụ gân guốc chúng tôi vẫn không khỏi bất ngờ. Xưa nay nói đến cây chè, ai cũng hình dung những đồi chè lúp xúp trên những bình nguyên, những chồi chè biếc non đọng  nắng rực sáng màu diệp lục, không thể tin có những cây chè cao hàng chục mét và thân rộng cả vòng tay ôm, người hái trà đứng chon von trên từng nhánh trà để hái lá như thế này…
Sổng A Nủ, chủ tịch xã Suối Giàng cẩn thận tráng ấm, cho vào một vốc trà móc câu anh ánh bạc và nói với chúng tôi: “Muốn viết về chè Suối Giàng thì phải uống trà Suối Giàng đã, mới có “cảm xúc” mà viết!”
Chiết trà ra chiếc chén nhỏ trên khay, màu nước óng vàng và hương thơm dậy ngát theo chén trà bốc khói, dù là người không sành về trà, nhưng quả thật, đến với Suối Giàng-“đệ nhất kỳ quan trà Việt” vẫn thấy trong mình lâng lâng khinh khoái như một đệ tử của trà đạo. Chủ tịch xã  Sồng A Nủ nheo mắt cười cười: “Nhìn rồi, ngửi rồi, giờ nếm thử đi…” Nhấp ngụm trà sóng sánh, một cảm giác tê đắng, chan chát  đầu lưỡi vừa lan ra đã biến thành vị ngọt rất “hậu”. Nhưng câu chuyện về hương và vị của trà Suối Giàng chúng tôi  sẽ nói thêm ở phần sau. Giờ thì chúng tôi đang đi trong miên man bạt ngàn của rừng chè cổ thụ. Đang là tháng mười miền Tây Bắc, mây trắng vẫn giăng giăng qua những đồi chè Từ độ cao trung bình 1371 mét của Suối Giàng  nhìn xuống thung lũng Nghĩa Lộ-Văn Chấn kéo dài hàng chục cây số đang ửng vàng sắc lúa, rồi nhìn lên đỉnh Chông Páo Mùa chìm trong mây, càng thấm thía cái tên Suối Giàng - miền thượng giới, bởi trong tiếng Mông, Giàng chính là Trời. Và những cây chè cổ thụ này chính là báu vật của miền trờiban tặng riêng cho Suối Giàng
Những cây chè ở “miền trời” cứ mê hoặc dẫn dụ chúng tôi đi, từ bản Giàng A đến Giàng B qua Pang Cáng, đến Tập Lăng… Hơn tám vạn cây chè cổ tập trung thành một quần thể rộng lớn chưa từng có ở bất cứ đâu. Nếu nói về những cây chè có thân to, chúng tôi đã gặp ở Sín Chải, Lao Chải, Cao Bồ… (thuộc huyện Vị Xuyên, Hà Giang) nhưng tập trung quần tụ sum vầy làm nên một miền chè cổ thụ kỳ thú như thế này, có lẻ Suối Giàng là nơi duy nhất.
Đưa chúng tôi ra hội trường ủy ban xã, treo trang trọng phía góc phải của hội trường là tấm hình một cây chè “thủy tổ” với thân chè to bằng hai vòng tay ôm. Và hai người ôm cây chè trong tấm hình lịch sử này là phó thủ tướng Phạm Hùng và Bộ trưởng Bộ nội thương Nguyễn Thanh Bình chụp vào ngày 9-9-1962.
Trong tấm hình đen trắng được chụp từ gần nửa thế kỷ trước là hình ảnh một “lão trà” đại cổ thụ cao hơn 10 mét và tầm phủ tán rộng hàng chục mét vuông. Tiếc thay, khi chúng tôi đề nghị được đến thăm cây chè trong ảnh, anh Sổng A Nủ nói rằng cây chè đó đã bị chết vì mối đục thân từ mấy năm trước, và thay vì có giữ nó lại như một di tích thì chủ nhân cây chè đã bổ nó ra làm củi (!). Cây chè trong tấm hình đã bị đốn thì giờ đây người Suối Giàng vẫn có một cây chè khác để tôn làm cây chè tổ, hàng năm có lễ cúng nghiêm cẩn với thần chè, như người miền xuôi cúng “thần lúa”.
Từ cây chè tổ đến … thủy tổ cây chè
Dẫn đường cho chúng tôi vào thăm cây chè tổ của Suối Giàng là anh Giàng A Tủa, Bí thư xã Đoàn xã Suối Giàng. Phăm phăm len lỏi qua những thân chè phủ đầy địa y rêu mốc, chúng tôi dừng lại trước một cây chè với thân được hợp thành từ ba gốc, tán cây vươn dài ra hai phía, những cành chè mang dáng dấp của một bonsai khổng lồ, đẹp mê hoặc. Đây chưa phải là cây chè to nhất, bởi cây chè cổ to nhất, từng được Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm và chụp ảnh chung với cán bộ và nhân dân trong xã nằm ở bản Pang Cáng sau đó cũng bị chết vì  bị mối đục (và cây chè tổ này cũng đang bị mối đục (!).
Chính rừng chè shan tuyết  cổ thụ này đã mê hoặc một chuyên gia hàng đầu về nghiên cứu  chè của thế giới, Viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ), ông M.K Djemukhatze từ những năm 60 của thế kỷ 20. Hình ảnh rừng chè cổ thụ mênh mông độc nhất vô nhị trên thế giới đã khiến ông dành nhiều tâm sức với cây chè Suối Giàng để cho ra đời một chuyên khảo công phu về chè Việt sau cả chục năm trời đi đi về với Suối Giàng. Trong sổ lưu niệm ở xã Suối Giàng còn ghi lại cảm tưởng của Djemukhatze về cây chè và vị chè kỳ diệu ở đây: “Tôi đã đi qua 120 nước có cây chè trên thế giới nhưng chưa thấy ở đâu có cây chè lâu năm như ở Suối Giàng, phải chăng đây là nơi phát tích của cây chè? Chè ở đây độc đáo, trong bát nước chè xanh có đủ 18 vị đầu đẳng của chè thế giới”. Không dừng lại ở những cảm xúc nồng nhiệt ban đầu dành cho cây chè Suối Giàng, bằng những thực nghiệm khoa học, dựa trên “thuyết tiến hóa” của nhà bác học Darwin, Djemukhatze đã có các kết quả thực nghiệm về sự hình thành và tích lũy catechin trong cây chè hoang dã ở Suối Giàng đối chiếu với các vùng chè khác trên thế giới để cho ra một kết quả bất ngờ và đầy thuyết  phục. Sơ đồ tiến hóa hóa sinh của cây chè thế giới được M.K Djemukhatze đưa ra là: Camelia > Thea wetnamica (chè Việt Nam)-> Thea fuinamica (chè Vân Nam lá to)-> The sinensis (chè Trung Quốc lá nhỏ)-> Thea assamica (chè Assam Ấn Độ).  Với chiết xuất catechin từ các mẫu chè cổ của Việt Nam (mà cụ thể là ở Suối Giàng) Viện sĩ Djemukhatze đã đề xuất tên khoa học mới cho cây chè là Thea wetnamica (chè gốc Việt Nam) thay cho tên khoa học Thea sinensis (chè gốc Trung Hoa),,,
 
 
 

Huyền ảo Hạ Long

11/07/2023 lúc 08:57







T





ôi nghĩ rằng bất cứ một người Việt Nam nào cũng có ước mơ và niềm vui sướng được một lần hoặc nhiều lần lên du thuyền ngắm cảnh vịnh Hạ Long. Ngày nay du khách nhiều nước trên thế giới đã vượt biển trời xa hàng vạn dặm tìm về đây chỉ một mục đích: Ngắm cảnh vịnh Hạ Long.
Sáng nay sau ba giờ đường bộ bằng ô tô chúng tôi đến đảo Tuần Châu, bắt đầu một tua du lịch ngắn ngày, thực hiện ước mơ bấy lâu ấp ủ: Đón chúng tôi là con tàu hơi nước kiểu Pháp đầu thế kỷ 20 có tên là Emeraude (Ngọc lục bảo). Xin nói ngay với bạn đọc là: Để bảo vệ môi trường, tránh những tiếng ồn không cần thiết, những con tàu du lịch ở đây ưu tiên chạy bằng hơi nước, chạy bằng buồm hoặc chèo tay. Tàu Emeraude chỉ dài 55m rộng 7m, 3 tầng với 38 ca bin, 2 quầy ba - vậy mà tập hợp đủ mặt du khách ba miền Trung Nam Bắc. Tôi-người Quảng Trị, bạn đồng hành cùng tôi có người ở đồng bằng sông Cửu Long, có người ở Hà Nội, Hải Phòng, có người ở Lai Châu, Sơn La. ..
 

Tôi yêu Savanakhet, nơi có Khamkham Chatthavong

11/07/2023 lúc 08:57






K





hi còn cách Savanakhet đến một trăm cây số, tôi đã để ý thấy ông tài xế lái chuyến xe "liên vận" khởi hành từ Đông Hà, chất ngất hàng hóa và người, một tay cầm vô lăng, tay kia áp điện thoại vào tai, trò chuyện với ai đó rất sôi nổi. Đoạn, ông quay lại, nói với ra phía sau:
-Ai từ báo Quảng Trị sang, yên tâm, có người đón ngay tại bến xe nhé!
Đường Lào hun hút. Hai bên, rừng già tràn cả ra phần bê tông nhựa phẳng lỳ. Thi thoảng mới gặp một bản làng nhỏ bé và yên hòa. Lâu lắm mới thấy một chiếc xe ô tô bán tải chạy ngược chiều, phía sau thùng xe là những mẹ, những em đầu trần chang chang, ngồi nhấp nhổm giữa rau quả, cá mú, thịt thà và những tà khăn rằn phất phơ, nụ cười lấp lóa trong nắng.
Còn khoảng ba mươi, hai mươi cây số nữa, lại có cuộc điện thoại, lại chuyện trò rất thân tình, với ra phía sau, ông tài xế lặp lại câu nói liên quan đến tôi:
-Yên tâm, có người đón ngay tại bến xe nhé!
Xe dừng, một thanh niên có khuôn mặt nhẹ nhõm, nói tiếng Việt bằng chất giọng con trai vùng Bắc bộ ấm áp,  bước ngay tới cửa. Anh cầm lấy tay tôi như đã gặp từ lâu lắm rồi, vỗ vỗ vào lưng tôi, anh bảo:
-Đi đường có mệt không? Về nhà thôi.
Đó là anh Khun My, được báo Savanphatthana nhờ phiên dịch tiếng Việt những ngày tôi lưu lại ở đây. Đi bên cạnh là anh Si lăm phăn, Trưởng ban Biên tập của báo, người thấp đậm, luôn nở nụ cười nhân hậu.
Tôi đến báo Savanphatthana như về với nhà mình.
Buổi sáng đầu tiên, đến cơ quan để chào mọi người, tôi đã thấy có dòng chữ Lào viết trên tấm bảng treo trước phòng máy vi tính, chữ viết rất mới, dường như thông báo sự có mặt của tôi và anh họa sĩ từ báo Quảng Trị sang. Tôi đoán vậy vì thấy "báo Quảng Trị" được viết bằng chữ Việt in hoa rất trang trọng.
Chúng tôi đã có cuộc giao ban ngắn với ban biên tập và phóng viên của báo trước khi làm việc với lãnh đạo Sở Thông tin- Văn hóa Savanakhet về những công việc cụ thể mà chúng tôi sẽ làm với bạn trong những ngày sắp tới.
Sau những buổi xã giao ban đầu, chúng tôi cùng các bạn ở báo Savanphatthana bắt tay vào những công việc chuyên môn như xử lý ảnh của phóng viên chụp về, lên trang, trình bày báo, chỉnh sửa lại măng sét...Việc đang ngon trớn, tự dưng có một nhà báo nữ, người dong dỏng, khuôn mặt rám nắng và duyên dáng, tóc búi cao, một tay kéo tôi ra phía cửa, một tay kéo anh Khun My, nhờ anh Khun My hỏi tôi rằng, đi ra phố chơi một chút có được không?
Tôi gật đầu.
Khun My giới thiệu với tôi, đây là Khamkham Chatthavong, cử nhân tiếng Anh, phóng viên trẻ của báo. Khamkham viết báo rất giỏi và từng phiên dịch tiếng Anh khi có khách nước ngoài đến làm việc.
Khamkham thấy tôi đồng ý thì vui lắm, khuôn mặt rạng rỡ, cử chỉ cũng trở nên lúng túng, khác với sự năng động của ngày thường, đi đi, đến đến, nhanh nhẹn, tháo vát. Em dắt chiếc xe máy dáng thể thao, xoay trở mãi mới ra được khuôn cửa rộng, khác với lúc đến, xe phanh kít, len lỏi điệu nghệ giữa hàng hàng xe máy san sát.
Khamkham chụp lên đầu tôi chiếc mũ bảo hiểm, giao chìa khóa xe, rồi từ tốn ngồi lên yên sau, giọng nói nhẹ như gió thoảng: Cà phê!
Tôi đã có một buổi sáng thong dong khắp phố phường, nơi được mệnh danh là "Thành phố Hồ Chí Minh "của bạn. Những dãy phố cổ trầm mặc rêu phong, có cảm giác như thời gian đang ngưng lại bên ô cửa màu gỗ mun ánh lên trong buổi ban mai yên ả. Qua những chùa  chiền thấm đẫm mùi trầm và hương thơm từ loài hoa đại cánh trắng nhị vàng. Qua những dãy phố sang trọng, hàng hóa bề bộn nhưng lòng người thuần hậu.
 Ngoài kia, sông Mê Công đang mùa nước cường, cuồn cuộn phù sa, ầm ào, sôi sục. Con đường bên sông, cuộc sống lại an nhiên, "cây và đá sạch như vô nhiễm"  như trong một câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường....
 
 
 

Gặp lại nữ du kích lái đò xưa

11/07/2023 lúc 08:57






M





ỗi lần được dịp vào Thành Cổ Quảng Trị, trước đài tưởng niệm, đứng trang nghiêm cúi đầu dành những phút mặc niệm tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã không tiếc máu xương hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Việc nữa, chúng tôi thắp những nén hương để cầu nguyện cho linh hồn các anh hùng liệt sĩ và không quên vào nhà bảo tàng để ngắm nhì những hình ảnh, vật dụng, của những chiến sĩ cách mạng làm nên bao chiến công oanh liệt trong lịch sử chiến tranh Vệ quốc. Trong đó có một bức ảnh do nhà báo Công Tính chụp một ông già cầm chắc mái chèo và cô gái cầm chắc tay súng đưa bộ đội qua sông trong  mùa hè đỏ lửa trên sông Thạch Hãn năm 1972. Chúng tôi thường đứng tần ngần rất lâu trước tấm hình và tự hỏi, họ còn sống hay đã hy sinh trong tám mươi mốt ngày đêm ác liệt ấy. Và câu hỏi ấy cứ theo tôi mãi cho đến một ngày mà tôi không tin vào mắt mình. ........
 

Ông già bên cầu Hiền Lương

11/07/2023 lúc 08:57






M





ột câu chuyện diễn ra cách đây hơn một phần tư thế kỷ ở cầu Hiền Lương, cây cầu bắc ngang qua sống Bến Hải đã đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Ngày 30 - 5 - 1975, sau giải phóng miền Nam tròn một tháng, mười anh em cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 3 Sao Vàng chúng tôi được cử ra biên giới phía Bắc công tác. Đoàn chúng tôi đi trên chiếc xe GMC, chiến lợi phẩm của địch. Xe khởi hành từ Nha Trang, qua một ngày vượt hơn chục ngọn đèo với gần sáu trăm cây số, đường dài gian nan vất vả ai cũng thấm mệt. Trưởng đoàn cho chúng tôi nghỉ chân ở Huế, ăn tối và ngủ một giấc trên bờ sông Hương để lấy lại sức. Bốn giờ sáng, cả thành phố Huế còn chìm trong giấc ngủ, trưởng đoàn đã đánh thức chúng tôi dậy lên xe đi tiếp. Xe vừa ra khỏi thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị chừng non một cây số, dưới anh trăng vàng nhạt, chúng tôi thấy một người đàn ông hớt hải chạy đuổi theo xe chúng tôi. Vừa chạy ông vừa la lớn, la khản cả giọng: “Các… chú… giải phóng ơi, cho tui đi nhờ về bên bờ Bắc với!”. ...........
 

Lỗi hẹn Tây Bắc

11/07/2023 lúc 08:57






T





ôi đã rất khấp khởi chuẩn bị cho một chuyến lên Tây Bắc. Cái lý do để đi là tham gia Trại viết của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, thời gian kéo dài 15 ngày. Thật không có cái kênh nào hợp lý bằng cái kênh đi trại viết để khám phá, thâm nhập thực tế. Chuẩn bị sẵn cho kế hoạch này, tôi đã chuẩn bị gần mấy trăm trang bản thảo theo đề cương đăng ký, đến nơi chỉ nộp “quyển” đúng theo yêu cầu là thong dong đi và viết về Tây Bắc...
Còn nhớ cái hôm kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam ở Nhà hát lớn Hà Nội, GS. Tô Ngọc Thanh bảo cái công trình tôi đăng ký năm nay hấp dẫn, hi vọng sẽ có thêm một đầu sách hay in trong năm tới. Thế mà trước lúc trại khai mạc mấy ngày, ThS. Cao Thị Hải điện vào báo tôi hoãn chuyến đi, cơ quan chủ quản của anh báo ra là không thể đi dài ngày như thế được, vì ở nhà không ai duyệt bài, tổ chức bài vở ra báo. Chao ôi là lý do lý trấu! Cái thời nào rồi mà làm báo phải ngồi trực ở cơ quan? Không để lỗi hẹn, tôi đảo quy trình điền dã bằng cách nối mạng với nhà báo, nhà văn Đặng Bá Tiến đang dẫn một đoàn VNS lên Tây bắc. Nó đang săn ảnh ở Sơn La, Điện Biên ...

Xuân về thay áo mới

11/07/2023 lúc 08:57






L





âu nay vẫn cứ nghe nói “Xuân về thay áo mới”, ý là nói cái thay đổi về cảnh sắc thiên nhiên, là nói về cái sự rạo rực, phấn chấn của lòng người trước sự thay đổi mang tính chu kỳ của trời đất, cỏ cây dưới tác động của khí hậu dịch chuyển theo chu trình: Tàn lụi - Hồi sinh. Đông qua - Xuân tới. “Xuân về thay áo mới” còn được hiểu và “vận” vào tâm thế, hoàn cảnh của con người theo cái mạch: Bĩ cực - Thái lai...
Thế mà ngày trước, nhất là ở cái tuổi hoa niên (cách nói hoa mỹ), chứ cái tuổi hoa niên của tôi (và cũng chẳng riêng tôi) ở cái thời tem phiếu thì phải gọi nó đúng tên là tuổi thơ bùn đất, tuổi thơ nghèo đói. Câu “Xuân về thay áo mới” không phải là cố ý nói chệch đi mà chính là sự háo hức “Xuân về được may áo mới”. Làm sao lại không háo hức khi quanh năm ngày tháng, năm này sang năm khác toàn mặc lại quần áo của anh. Vải chúc bâu, xanh chéo... vẫn còn soàn soạt thế, nhưng khốn nỗi những bộ “hoàng bào” ấy khi khoác lên mình những bậc đế vương, khi khoác lên mình những thằng quỷ sứ chúng tôi thì đít quần, gối chân, gối tay chẳng mấy mà đã tớp tua. Bà nội tôi ngồi vá quần, vá áo cho hai thằng cháu nội, mỗi lần xâu chỉ vào trôn kim qua đôi mắt kèm nhèm lại làu bàu:...

Mang ơn vùng biển quê hương

11/07/2023 lúc 08:57






C





ửa Tùng tháng bảy đang là mùa nắng. Dọc bãi tắm lác đác khách du lịch với nhiều biển số xe các tỉnh khác nhau nhưng chủ yếu là của các tỉnh phía Bắc, họ đi viếng nghĩa trang liệt sĩ và không quên ghé biển Cửa Tùng (huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị), nơi được mệnh danh “Nữ hoàng của các bãi tắm”. Tôi cùng doanh nhân Hồ Thanh Ngọc, giám đốc doanh nghiệp tư nhân Ngọc Tuấn ngồi trong quán cà phê Lộng Gió cùng hướng ra biển, nơi có gió sặc vị mặn của biển thổi vào. Trước mặt là thảm nước xanh phơi mình dưới ánh mặt trời, nhấp nhánh sóng.
Cửa Tùng không giống bất kỳ cửa biển nào mà tôi đã biết. Phía Bắc là các bãi đá do tạo hóa hình thành nên những eo vịnh bám sát vào triền đồi đất đỏ ba zan từ cửa biển lên Bến đò A và kéo dài thêm trên chục cây số nữa qua Vĩnh Thạch lên Vĩnh Kim tạo thành những vịnh nhỏ, kín đáo không có dòng hải lưu cuốn xoáy, quanh năm sóng gió hiền hòa. Phía trên bãi tắm Cửa Tùng là một vùng đất đỏ ba zan xóm làng cây cối xanh tươi trù mật với rất nhiều đặc sản đậm chất Quảng Trị. Đối diện Cửa Tùng, phía Nam là một bãi ngang cát trắng tinh chạy dài tít tắp. Nước biển ở đây màu xanh cũng lạ, nhiều người nói nó đổi màu theo giờ…

Hồi sinh từ những đôi đòn gánh

11/07/2023 lúc 08:57






C





ả một vùng đất chết với cơ man là hố bom, xác pháo, dây thép gai đã thay da đổi thịt và “dính người” một cách lạ lùng. Cũng không khó hiểu khi họ - những con người của đất thép Vĩnh Linh anh hùng đi qua chiến tranh với bao nhiêu mất mát, bao nhiêu máu xương đã đổ - nên những gian khó trong thời bình dường như “chẳng thấm”. Vì thế, khi tiếng súng trên quê hương vừa dứt, công cuộc xây dựng cuộc sống mới lại thôi thúc họ “gánh” tên làng, tên xã đi kinh tế mới lên những vùng cao. Vùng miền núi huyện Hướng Hóa sau những năm chiến tranh là một bức tranh ngổn ngang với nhiều tâm sự. Nhưng giờ đây, sắc màu của sự hồi sinh, của cuộc sống mới đã tràn trề ở phố núi này. Câu chuyện “cổ tích” ấy bắt đầu từ những… đôi đòn gánh.
Dấu vết của nghèo đói
Ông Hồ Pả Nay - người đồng bào Vân Kiều ở thôn Ruộng, xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa năm nay gần 70 tuổi. Đã hơn quá nửa cuộc đời gắn bó với mảnh đất này nên dù tuổi đã cao nhưng trông ông vẫn còn khỏe mạnh và rắn rỏi. Cái tẩu hút thuốc đen bóng vắt vẻo trên môi, trong ánh sáng mờ nhạt của bếp lửa ngay giữa gian nhà bếp, ông nhả một hơi thuốc dài rồi kể lại câu chuyện của mấy mươi năm về trước - khi vùng miền núi này còn hoang sơ và nghèo đói… Sau năm 1975, dân cư thổ địa ở đây là người đồng bào Vân Kiều, Pa Cô sống rải rác thành từng bản. Đất đai nương rẫy thì nhiều, nhưng không có sức làm bởi trình độ canh tác lạc hậu, phụ thuộc lớn vào thiên nhiên. Bom mìn còn sót lại sau chiến tranh nhan nhản, rất nhiều người chết, bị thương tật do vướng phải khi làm nương rẫy...

Tùng Luật - Làng nghệ sĩ

11/07/2023 lúc 08:57






D





ừng chân ở Cửa Tùng, cô bạn gái T. L chỉ đường cho tôi một cách cặn kẽ, rằng anh cứ đi ngược lên chừng hai cây số gặp sông là đến địa phận xã Vĩnh Giang, hỏi làng Tùng Luật là người ta sẽ chỉ đường cho. Tôi cười thầm bởi cô bạn cứ nghĩ rằng tôi ngồi bàn giấy lâu rồi, đã mất cảm giác đi thực tế. Hôm ấy là buổi sáng mùa hè nhưng ảnh hưởng áp thấp ngoài biển Đông, trời mưa giăng giăng khắp nẻo. Cố tình chạy xe chầm chậm dọc theo công viên gần một cây số bên sông, tôi muốn có phút giây thư thái để cảm nhận vẻ đẹp thanh bình của một làng quê nằm gần cuối dòng Bến Hải, nơi sinh ra những nghệ sĩ tài danh. Từ đây ra cửa biển chỉ còn không mấy nhịp chèo. Người mà tôi muốn gặp trong chuyến đi này là Nghệ sĩ Ái Chủng. Đã đôi lần gặp ông, khi thì ở các liên hoan nghệ thuật, khi thì thấy ông lên nhận bằng khen về thành tích xuất sắc trong khôi phục chèo cạn Tùng Luật...nhưng hôm nay tôi về đây là để nghe chính ông cắt nghĩa vì sao người ta gọi làng Tùng Luật quê ông là làng nghệ sĩ?...

Ướp quê vào tâm hồn

11/07/2023 lúc 08:57

Cởi chiếc áo cũ ra đi
Buồn vui bốn mùa phải đâu phút chốc
Kỳ cọ tâm hồn, ướp lá đường cong…





T





ắm Tết. Tắm chiều ba mươi. Tắm đêm trừ tịch. Tắm lá mùi miền Bắc. Tắm hương nhu miền Nam. Tẩy trần, tẩy bụi bặm trần ai, tẩy cả những phiền muộn lo âu đầy ngập bốn mùa qua.
Giọt giọt mặn đắng rơi xuống. Giọt giọt thơm nồng bốc lên. Ướp mới, ướp cho tươi sạch da người, tươi sạch tuổi thơ, tươi sạch ký ức, tươi sạch cả con người luốc lem, bầm dập, sân si, sau chuỗi ngày lao đi lao về như cánh chim, như vó câu, như làn gió mỏng, như thân tâm này, linh hồn này trót trao cho khổ ải, nhịn nhục, hy sinh.
Vậy đó! Chẳng biết từ lúc nào người Việt mình có thói quen tắm Tết. Tôi chập chững vào đời đã thấy má tôi tắm Tết. Má tôi sinh ra đã thấy ngoại tôi tắm Tết. Ngoại tôi bập bẹ nói cười đã thấy cố tôi tắm Tết. Cuộc tắm truyền đời. Cuộc tắm miên man để giữ cho phận sống dẫu mỏng manh cũng mong, cũng ước, cũng nguyện, cũng giữ cho muôn phần thanh sạch, thơm nguyên. “Đói cho sạch, rách cho thơm”, má tôi thường nhắc các con mình như thế. Lớn khôn tí chút tôi hiểu lời dạy của má không chỉ tắm thơm da thịt, cơ thể mà còn phải tắm táp, ướp giữ thơm tho từng ý nghĩ, từng việc làm, từng nhịp hít thở trong giây phút, trong đoạn quãng sống quý giá ở cõi đời này...

Mảnh vườn xưa

11/07/2023 lúc 08:57






T





rong kí ức mỗi chúng ta, nhất là với những ai từng sinh ra và lớn lên ở làng quê, mảnh vườn có ngôi nhà che chở đã trở nên một kỉ niệm vô cùng thiêng liêng, máu thịt. Hình ảnh mảnh vườn xưa luôn hiển thị trong ta với những đường nét, sắc màu, âm thanh và cả mùi vị thân quen khiến dù đi đâu, ở đâu, mảnh vườn vẫn níu kéo tâm hồn ta quay trở về trong những đêm thao thức, những lúc bỗng nghe buồn, là lúc ta rất cần một điểm tựa. Cái mảnh vườn ấy luôn có trong trái tim ta, và thật lạ, nếu nó vẫn xanh mướt lá cành nơi quê cũ, đã hẳn nó làm ta nhớ, nhưng một khi nó đã mất đi lại càng làm ta nôn nao nghĩ tới. Nó không còn là những gì đã và sẽ thay đổi theo tháng ngày, mà đã định vị như đóng dấu trong trí não với những khuôn hình cuối cùng ta chứng kiến. Những hình ảnh đó sống mãi, cứ sừng sững trong lòng ta, mọi thứ ngày càng trở nên thiêng liêng hơn, ám ảnh hơn lúc xưa ta còn có nó.
Tôi đã trải nghiệm nỗi lòng với mảnh vườn xưa như thế. Tôi từng có một mảnh vườn quê cũ nơi cha mẹ, anh em tôi sinh sống, nơi còn cất giấu núm rau của tôi ngày mẹ sinh mà giờ đây tôi vẫn hình dung ra, lần lượt từ ngõ vào sân cho đến bờ cây cuối cùng sau vườn…

Người đam mê sáng chế

11/07/2023 lúc 08:57

 





M





ột ngày đầu tháng Tám chúng tôi tìm đến nhà anh. Nắng chiều xuyên qua kẻ lá yếu ớt và làn gió dìu dịu tràn qua những con đường quen thuộc khi thu sang. Căn nhà cấp bốn nằm sâu vào giữa con đường Tôn Thất Thuyết thành phố Đông Hà đang ngập tràn niềm vui qua lời chúc mừng của bạn bè đồng nghiệp, láng giềng sau thành công trở về từ cuộc Hội chợ thiết bị công nghệ Việt Nam tại Quảng Ninh năm 2010… với chiếc máy phát điện nhờ năng lượng sóng biển.
Trong căn phòng nhỏ ấm áp, trước mắt chúng tôi là một người đàn ông cao to, khuôn mặt điềm đạm rót chén trà ngon mời chúng tôi. Anh tâm sự: “Tình cờ một hôm tôi xem một phóng sự truyền hình về một hòn đảo nào đó của đất nước với biết bao khó khăn thiếu thốn của cuộc sống trong đó điện năng là vấn đề nan giải nhất đối với người dân nơi này. Xem xong chương trình, tắt ti vi rồi mà tôi không sao ngủ được, cứ đi đi lại lại suy nghĩ suốt đêm vậy. Với những kiến thức tích lũy được tôi trăn trở và bắt đầu mò mẩm nghiên cứu sáng chế”.
...........
 
 

Vĩnh Quang - Miền ký ức

11/07/2023 lúc 08:57






B





ây giờ thì xã Vĩnh Quang (Vĩnh Linh, Quảng Trị) đã lên thị trấn, nhưng không phải thị trấn Vĩnh Quang, mà là thị trấn Cửa Tùng- một thị trấn non trẻ đã hiện hữu nơi cửa biển ở hạ lưu sông Bến Hải. Cũng vì thế mà từ nay trở đi cái tên Vĩnh Quang không còn trong danh mục hành chính của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị nữa. Nhưng cho dù Vĩnh Quang đã trở thành thị trấn Cửa Tùng và sau này sẽ phát triển lên thị xã, hay thành phố đi chăng nữa thì với tôi, cái tên Vĩnh Quang vẫn mãi mãi tồn tại trong ký ức của một thời “ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam”, của một thời trai trẻ đầy gian khổ hy sinh, nhưng cũng rất kiêu hãnh khi được trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng trong vùng địch.
...........
 

Cây đàn ghi ta cũ kỹ

11/07/2023 lúc 08:57






S





au chiến  tranh những người lính chúng tôi trở về với đời thường… Dù thế nào thì một năm ba ngày 30-4, 5-10 và 22-12 chẳng ai bảo ai, không điện thoại, không nhắn tin… nhưng tất cả lại như có một sực hút thần kỳ tụ tập với nhau.
Ai cũng biêt 30-4 là ngày Giải phóng Miền Nam, 22-12 là ngày Thành lập Quân đội, còn ngày 5-10 thì ít ai biết? Đó là ngày thành lập binh chủng Tăng Thiết Giáp và cũng là ngày “sôi nổi” nhất của chúng tôi. Trong ngày ấy, người thì đến Bộ Tư Lệnh Thiết giáp liên hoan theo định kỳ, người thì gặp gở với đại diện cơ quan Dân Chính Đảng… Riêng chúng tôi, những người lính nhập ngũ từ sân trường đại học thì ăn mừng theo kiểu riêng của mình: tụ tập ở nhà một ai đó… rồi chủ yếu là rượu và không thể không hát, từ quân ca đến tình ca… Đầu trò không thể thiếu Lăng – giảng viên đại học Thủy lợi kiêm “nhạc sĩ”. Gọi Lăng là “nhạc sĩ” cũng chăng “ngoa”. Trong vài năm gần đây, anh đã cho ra đời nhiều bài hát về cuộc chiến anh hùng, về nỗi nhớ, về tình yêu, về người ra đi và ở lại… Lần nào anh cũng ôm một cây đàn ghi-ta điệm nhịp cho đồng đội, có lần anh tâm sự… các sáng tá của anh đều bằng cây đàn này!
Tôi cầm cây đàn lên. Đó là một cây ghi-ta cũ kỹ. Cũ kỹ đến ta tơi… toàn bộ lớp véc-ni đã sờn tróc từng mảng, các khóa phím bằng nhựa trắng đã ngả màu vàng, quanh vòng tròn thoát âm có khảm một vòng giả đồi mồi đã trầy xước, thân đàn đã bong tróc lớp gỗ dán phía ngoài và được chủ của nó “trợ lực” bằng chằng chịt băng dính như một chiến binh trong quân y viện với màu sắc không thể ta bằng lời: vàng đất, xám xịt, nâu bẩn, véc-ni pha bụi, gỗ pha đất sét… đều đúng! Chỉ có duy nhất các phím kim loại của cây đàn là vẫn ánh lên màu thép do được các ngón tay thường xuyên lướt qua. Cây đàn nhẹ đến vừa độ, ấn vào các phím cảm giác mềm, rất vừa tay. Điều đặc biệt là âm thanh thì không chê vào đâu được. Tôi chuyển vài gam và chợt nhận ra một âm sắc đặc biệt chưa từng thấy các cây đàn khác… “một sự não ruột sâu lắng” thoát ra từ hộp đàn… và bao giờ tôi cũng thấy Lăng xúc động khi ôm đàn. Một lần tôi hỏi: “Ông  với cây đàn có uẩn khúc gì chăng?” Lăng bảo: “Nó không phải là một cây đàn thường đâu, trước đây nó đã từng của một người lính đối phương đấy. Anh muốn nghe không?”. Rồi Lăng kể cho tôi nghe:
“…Cuối năm 1975, trung đoàn xe tăng 574 chúng tôi được điều về đóng chốt tại phía tây tỉnh Quảng Nam giáp Lào, ngay thượng nguồn sông Thạch, con sông thất thường hay giở chứng trong mùa mưa lũ… Cuộc chiến vừa kết thúc, người ta hối hả với bao nhiêu là việc, ra Bắc nhận họ, vào Nam nhận “hàng”… Đất Quảng và cả miền Nam sau cuộc chiến, toàn thân lở loét những vết thương dữ dội của những hố bom pháo, hầm hào và cả trong tâm hồn con người. Thế mà không dưng chúng tôi lại lạc vào cái thung lũng hoang vắng này… giữa các triền núi thoai thoải, lau sậy um tùm và cánh rừng thưa.
Một buổi chiểu, sau khi cho xe vào lán, bảo dưỡng xong, tôi một mình lang thang vào sâu trong thung lúng, nơi khuất sau vách núi, thay vì đi ra đường Chín. Chiều hè, gió hun hút thổi từ Lào sang, khô nóng, lốm đốm những hoa dại màu vàng nhỏ li ti mọc sau cơn mưa. Ngay sau hàng rào là những cọc tre xô lệch, dốc lên một chút theo con đường mòn là một mái tranh trơ trọi, mấy đứa trẻ con sợ sệt. Tôi chào mẹ, nói lý do cuộc dạo và ngó quanh, nhà hoang tàn, trống vắng, nhưng bất ngờ khi thấy trên vách treo một cây ghi-ta. Tôi xin phép mẹ cầm xem và để làm dịu không khí căng thẳng, tôi chơi luôn hai bài “Quê em miền trung du” và “Bài ca hi vọng”… Tiếng đàn vừa vang lên, lũ trẻ đã ào vào. Tôi dường như sẵn sàng chờ sự náo nhiệt, láo nháo của chúng, giống bọn trẻ con ngoài Bắc mỗi khi nghe là im lặng… Chỉ khi tiếng đàn vừa dứt, chúng mới ùa sát vào tôi. Giữa mùi mồ hôi trẻ con nồng nặc và tiếng mắng mỏ của bà cụ, tôi lễ phép xim mẹ cho mượn cây đàn vài ngày để về tổ chức liên hoan cùng đơn vị. Bà ngần ngừ: “Chú chờ chút, con nhỏ nhà tôi sắp về đó… mà thôi, chú cứ cầm về đi!”. Tôi áy náy trong lòng, vốn là lính sinh viên, suốt mấy năm toàn dầu mỡ súng đạn, nay vớ được cây đàn như “buồn ngủ gặp chiếu manh”… mặt khạc, tôi đọc được điều gì đó băn khoăn trong là bà mẹ?...
 
 
 

none

11/07/2023 lúc 08:57






T





ôi không rành về kiến trúc, hội họa và cũng không giàu trí tưởng tượng. Cho đến một buổi sáng đầy nắng được thả mình vào không gian khoáng đạt nơi biển cả, được hòa vào dòng người bước những bước chân đầu tiên trên cầu Cửa Việt vạm vỡ giữa biển nước mênh mông, lúc đó tôi mới hình dung rằng, khi cầu Cửa Việt hoàn thành cùng với cầu Cửa Tùng giống như hai cánh tay của một lực sĩ có thân hình cường tráng là tuyến đường 9 đang nằm ''xoãi tay'' nơi cửa biển. Một sự tưởng tượng không giàu sắc màu nghệ thuật nhưng là hiện thân của niềm tin, của khát vọng từ bao đời nay của người dân Quảng Trị.
Chuyện người thợ cầu...  
Còn nhớ hơn mười lăm năm trước tại bến đò Tân Lợi (nay là nơi đứng chân cầu Cửa Việt), tôi háo hức cho lần vượt sông sang bờ Nam đi thực tế lấy tư liệu viết báo ở xã Triệu An và Đồn biên phòng Cửa Việt. Trời tháng sáu nắng gắt và gió Lào quạt lửa. Gió thổi cuộn lên từng ngọn sóng tung bọt trắng xóa phủ mạn thuyền. Tôi chao đảo theo sự ''lèo lái'' của một ngư phủ đã dạn dày với biển cả mà cứ ngỡ tim mình ''rơi'' khỏi lồng ngực. Thuyền chạm mép nước bờ nam, Huấn- chiến sĩ biên phòng được cử ra đón tôi tại bến lại òa cười khi nhìn thấy bộ dạng tội nghiệp và khuôn mặt tái mét của tôi. Đó là chuyến ''vượt sông'' đáng nhớ nhất trong đời mà tôi nguyện rằng sẽ không bao giờ có lần thứ hai.
Nhắc lại chuyện cũ để thấy lòng mình rộn ràng hơn khi đặt chân trên cầu Cửa Việt ngày hợp long. Tôi thấy bao gương mặt rạng ngời, những bó hoa tươi thắm được trao cho những người thợ đã ''lao tâm, khổ tứ'' với từng nhịp cầu nằm cận kề cửa biển nối hai huyện Gio Linh - Triệu Phong.
Có thể khẳng định rằng, cầu Cửa Việt là cây cầu lớn nhất Quảng Trị hiện nay với chiều dài trên tám trăm mét, gồm 11 trụ và 10 nhịp dẫn được thi công theo công nghệ hiện đại. Tôi nhớ hôm khánh thành cầu Cửa Tùng, một chuyên gia cầu đường đã bạo dạn hứa rằng, nếu có điều kiện họ sẽ tiếp tục thi công cầu Cửa Việt thành công trước những nghi ngại về địa chất, thủy văn và độ dài của cầu. Và hôm nay, tôi gặp lại nữ chuyên gia ấy trong ngày hợp long. Một mốc son đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc của ngành kỹ thuật cầu đường ở nước ta, một sự kiện trọng đại trong đời sống kinh tế -xã hội của người dân Quảng Trị.
Gặp Trương Quang Thọ, Đội trưởng Đội thi công của Công ty xây dựng cầu 75 là người đã gắn bó với cầu Cửa Việt từ những ngày đầu khởi công cho đến bây giờ, Thọ bồi hồi nhớ lại: "Dẫu đã tham gia thi công nhiều cây cầu trên cả nước nhưng em thấy cầu Cửa Việt là cây cầu mang lại cho bản thân nhiều kinh nghiệm nhất.
Đó là kinh nghiệm thi công cầu nơi cửa biển, phụ thuộc vào thủy triều và đặc biệt là phải chống chọi với gió Lào Quảng Trị. Gió thổi mạnh quá gây khó khăn cho công việc vận chuyển vật tư thiết bị ra tận nơi thi công. Địa chất ở cầu Cửa Việt hầu hết là cát. Máy khoan từ đáy xuống 20 mét nhưng vẫn còn gặp cát.
Và đặc thù của cát là kết cấu rời rạc nên rất khó cho việc đóng cọc nhồi. Để hoàn thành đúng tiến độ, Công ty phải thực hiện chủ trương tăng ca, tăng kíp. Bộ phận thi công được chia làm ba ca, bốn kíp triển khai đồng loạt các hạng mục như cọc khoan nhồi trụ, đúc dầm super T1. Bình quân một cọc phải sử dụng 130 khối bê tông, 13 tấn thép.
Riêng công nghệ đúc dầm super T1, đây là công nghệ hoàn toàn mới mà từ trước đến nay ở Quảng Trị chưa hề sử dụng. Công ty cầu 75 đảm nhận việc thi công từ mố 0T1 đến mố T6 nằm ở phía bắc thuộc địa phận thị trấn Cửa Việt, huyện Gio Linh.
Bao nhiêu khó khăn là thế nhưng em vẫn bám trụ với công việc bởi tự hào khi được tham gia chinh phục dòng sông nổi danh trong hai cuộc kháng chiến với nhiều trận đánh lịch sử...''. Tôi nhận ra từ lời bộc bạch của Thọ xen lẫn sự bùi ngùi, luyến lưu trong thời điểm sắp chia tay vùng đất này. Bình dị và giản đơn: ''Khi ta ở chỉ là nơi đất ở..."...
 
 
 

« 6364656667 »

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

30/03

25° - 27°

Mưa

31/03

24° - 26°

Mưa

01/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground