Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 25/04/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Bút ký

Phóng sự ảnh

Hồi sinh từ những đôi đòn gánh

11/07/2023 lúc 08:57






C





ả một vùng đất chết với cơ man là hố bom, xác pháo, dây thép gai đã thay da đổi thịt và “dính người” một cách lạ lùng. Cũng không khó hiểu khi họ - những con người của đất thép Vĩnh Linh anh hùng đi qua chiến tranh với bao nhiêu mất mát, bao nhiêu máu xương đã đổ - nên những gian khó trong thời bình dường như “chẳng thấm”. Vì thế, khi tiếng súng trên quê hương vừa dứt, công cuộc xây dựng cuộc sống mới lại thôi thúc họ “gánh” tên làng, tên xã đi kinh tế mới lên những vùng cao. Vùng miền núi huyện Hướng Hóa sau những năm chiến tranh là một bức tranh ngổn ngang với nhiều tâm sự. Nhưng giờ đây, sắc màu của sự hồi sinh, của cuộc sống mới đã tràn trề ở phố núi này. Câu chuyện “cổ tích” ấy bắt đầu từ những… đôi đòn gánh.
Dấu vết của nghèo đói
Ông Hồ Pả Nay - người đồng bào Vân Kiều ở thôn Ruộng, xã Hướng Tân, huyện Hướng Hóa năm nay gần 70 tuổi. Đã hơn quá nửa cuộc đời gắn bó với mảnh đất này nên dù tuổi đã cao nhưng trông ông vẫn còn khỏe mạnh và rắn rỏi. Cái tẩu hút thuốc đen bóng vắt vẻo trên môi, trong ánh sáng mờ nhạt của bếp lửa ngay giữa gian nhà bếp, ông nhả một hơi thuốc dài rồi kể lại câu chuyện của mấy mươi năm về trước - khi vùng miền núi này còn hoang sơ và nghèo đói… Sau năm 1975, dân cư thổ địa ở đây là người đồng bào Vân Kiều, Pa Cô sống rải rác thành từng bản. Đất đai nương rẫy thì nhiều, nhưng không có sức làm bởi trình độ canh tác lạc hậu, phụ thuộc lớn vào thiên nhiên. Bom mìn còn sót lại sau chiến tranh nhan nhản, rất nhiều người chết, bị thương tật do vướng phải khi làm nương rẫy...

Tùng Luật - Làng nghệ sĩ

11/07/2023 lúc 08:57






D





ừng chân ở Cửa Tùng, cô bạn gái T. L chỉ đường cho tôi một cách cặn kẽ, rằng anh cứ đi ngược lên chừng hai cây số gặp sông là đến địa phận xã Vĩnh Giang, hỏi làng Tùng Luật là người ta sẽ chỉ đường cho. Tôi cười thầm bởi cô bạn cứ nghĩ rằng tôi ngồi bàn giấy lâu rồi, đã mất cảm giác đi thực tế. Hôm ấy là buổi sáng mùa hè nhưng ảnh hưởng áp thấp ngoài biển Đông, trời mưa giăng giăng khắp nẻo. Cố tình chạy xe chầm chậm dọc theo công viên gần một cây số bên sông, tôi muốn có phút giây thư thái để cảm nhận vẻ đẹp thanh bình của một làng quê nằm gần cuối dòng Bến Hải, nơi sinh ra những nghệ sĩ tài danh. Từ đây ra cửa biển chỉ còn không mấy nhịp chèo. Người mà tôi muốn gặp trong chuyến đi này là Nghệ sĩ Ái Chủng. Đã đôi lần gặp ông, khi thì ở các liên hoan nghệ thuật, khi thì thấy ông lên nhận bằng khen về thành tích xuất sắc trong khôi phục chèo cạn Tùng Luật...nhưng hôm nay tôi về đây là để nghe chính ông cắt nghĩa vì sao người ta gọi làng Tùng Luật quê ông là làng nghệ sĩ?...

Ướp quê vào tâm hồn

11/07/2023 lúc 08:57

Cởi chiếc áo cũ ra đi
Buồn vui bốn mùa phải đâu phút chốc
Kỳ cọ tâm hồn, ướp lá đường cong…





T





ắm Tết. Tắm chiều ba mươi. Tắm đêm trừ tịch. Tắm lá mùi miền Bắc. Tắm hương nhu miền Nam. Tẩy trần, tẩy bụi bặm trần ai, tẩy cả những phiền muộn lo âu đầy ngập bốn mùa qua.
Giọt giọt mặn đắng rơi xuống. Giọt giọt thơm nồng bốc lên. Ướp mới, ướp cho tươi sạch da người, tươi sạch tuổi thơ, tươi sạch ký ức, tươi sạch cả con người luốc lem, bầm dập, sân si, sau chuỗi ngày lao đi lao về như cánh chim, như vó câu, như làn gió mỏng, như thân tâm này, linh hồn này trót trao cho khổ ải, nhịn nhục, hy sinh.
Vậy đó! Chẳng biết từ lúc nào người Việt mình có thói quen tắm Tết. Tôi chập chững vào đời đã thấy má tôi tắm Tết. Má tôi sinh ra đã thấy ngoại tôi tắm Tết. Ngoại tôi bập bẹ nói cười đã thấy cố tôi tắm Tết. Cuộc tắm truyền đời. Cuộc tắm miên man để giữ cho phận sống dẫu mỏng manh cũng mong, cũng ước, cũng nguyện, cũng giữ cho muôn phần thanh sạch, thơm nguyên. “Đói cho sạch, rách cho thơm”, má tôi thường nhắc các con mình như thế. Lớn khôn tí chút tôi hiểu lời dạy của má không chỉ tắm thơm da thịt, cơ thể mà còn phải tắm táp, ướp giữ thơm tho từng ý nghĩ, từng việc làm, từng nhịp hít thở trong giây phút, trong đoạn quãng sống quý giá ở cõi đời này...

Mảnh vườn xưa

11/07/2023 lúc 08:57






T





rong kí ức mỗi chúng ta, nhất là với những ai từng sinh ra và lớn lên ở làng quê, mảnh vườn có ngôi nhà che chở đã trở nên một kỉ niệm vô cùng thiêng liêng, máu thịt. Hình ảnh mảnh vườn xưa luôn hiển thị trong ta với những đường nét, sắc màu, âm thanh và cả mùi vị thân quen khiến dù đi đâu, ở đâu, mảnh vườn vẫn níu kéo tâm hồn ta quay trở về trong những đêm thao thức, những lúc bỗng nghe buồn, là lúc ta rất cần một điểm tựa. Cái mảnh vườn ấy luôn có trong trái tim ta, và thật lạ, nếu nó vẫn xanh mướt lá cành nơi quê cũ, đã hẳn nó làm ta nhớ, nhưng một khi nó đã mất đi lại càng làm ta nôn nao nghĩ tới. Nó không còn là những gì đã và sẽ thay đổi theo tháng ngày, mà đã định vị như đóng dấu trong trí não với những khuôn hình cuối cùng ta chứng kiến. Những hình ảnh đó sống mãi, cứ sừng sững trong lòng ta, mọi thứ ngày càng trở nên thiêng liêng hơn, ám ảnh hơn lúc xưa ta còn có nó.
Tôi đã trải nghiệm nỗi lòng với mảnh vườn xưa như thế. Tôi từng có một mảnh vườn quê cũ nơi cha mẹ, anh em tôi sinh sống, nơi còn cất giấu núm rau của tôi ngày mẹ sinh mà giờ đây tôi vẫn hình dung ra, lần lượt từ ngõ vào sân cho đến bờ cây cuối cùng sau vườn…

Người đam mê sáng chế

11/07/2023 lúc 08:57

 





M





ột ngày đầu tháng Tám chúng tôi tìm đến nhà anh. Nắng chiều xuyên qua kẻ lá yếu ớt và làn gió dìu dịu tràn qua những con đường quen thuộc khi thu sang. Căn nhà cấp bốn nằm sâu vào giữa con đường Tôn Thất Thuyết thành phố Đông Hà đang ngập tràn niềm vui qua lời chúc mừng của bạn bè đồng nghiệp, láng giềng sau thành công trở về từ cuộc Hội chợ thiết bị công nghệ Việt Nam tại Quảng Ninh năm 2010… với chiếc máy phát điện nhờ năng lượng sóng biển.
Trong căn phòng nhỏ ấm áp, trước mắt chúng tôi là một người đàn ông cao to, khuôn mặt điềm đạm rót chén trà ngon mời chúng tôi. Anh tâm sự: “Tình cờ một hôm tôi xem một phóng sự truyền hình về một hòn đảo nào đó của đất nước với biết bao khó khăn thiếu thốn của cuộc sống trong đó điện năng là vấn đề nan giải nhất đối với người dân nơi này. Xem xong chương trình, tắt ti vi rồi mà tôi không sao ngủ được, cứ đi đi lại lại suy nghĩ suốt đêm vậy. Với những kiến thức tích lũy được tôi trăn trở và bắt đầu mò mẩm nghiên cứu sáng chế”.
...........
 
 

Vĩnh Quang - Miền ký ức

11/07/2023 lúc 08:57






B





ây giờ thì xã Vĩnh Quang (Vĩnh Linh, Quảng Trị) đã lên thị trấn, nhưng không phải thị trấn Vĩnh Quang, mà là thị trấn Cửa Tùng- một thị trấn non trẻ đã hiện hữu nơi cửa biển ở hạ lưu sông Bến Hải. Cũng vì thế mà từ nay trở đi cái tên Vĩnh Quang không còn trong danh mục hành chính của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị nữa. Nhưng cho dù Vĩnh Quang đã trở thành thị trấn Cửa Tùng và sau này sẽ phát triển lên thị xã, hay thành phố đi chăng nữa thì với tôi, cái tên Vĩnh Quang vẫn mãi mãi tồn tại trong ký ức của một thời “ăn cơm Bắc, đánh giặc Nam”, của một thời trai trẻ đầy gian khổ hy sinh, nhưng cũng rất kiêu hãnh khi được trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng trong vùng địch.
...........
 

Cây đàn ghi ta cũ kỹ

11/07/2023 lúc 08:57






S





au chiến  tranh những người lính chúng tôi trở về với đời thường… Dù thế nào thì một năm ba ngày 30-4, 5-10 và 22-12 chẳng ai bảo ai, không điện thoại, không nhắn tin… nhưng tất cả lại như có một sực hút thần kỳ tụ tập với nhau.
Ai cũng biêt 30-4 là ngày Giải phóng Miền Nam, 22-12 là ngày Thành lập Quân đội, còn ngày 5-10 thì ít ai biết? Đó là ngày thành lập binh chủng Tăng Thiết Giáp và cũng là ngày “sôi nổi” nhất của chúng tôi. Trong ngày ấy, người thì đến Bộ Tư Lệnh Thiết giáp liên hoan theo định kỳ, người thì gặp gở với đại diện cơ quan Dân Chính Đảng… Riêng chúng tôi, những người lính nhập ngũ từ sân trường đại học thì ăn mừng theo kiểu riêng của mình: tụ tập ở nhà một ai đó… rồi chủ yếu là rượu và không thể không hát, từ quân ca đến tình ca… Đầu trò không thể thiếu Lăng – giảng viên đại học Thủy lợi kiêm “nhạc sĩ”. Gọi Lăng là “nhạc sĩ” cũng chăng “ngoa”. Trong vài năm gần đây, anh đã cho ra đời nhiều bài hát về cuộc chiến anh hùng, về nỗi nhớ, về tình yêu, về người ra đi và ở lại… Lần nào anh cũng ôm một cây đàn ghi-ta điệm nhịp cho đồng đội, có lần anh tâm sự… các sáng tá của anh đều bằng cây đàn này!
Tôi cầm cây đàn lên. Đó là một cây ghi-ta cũ kỹ. Cũ kỹ đến ta tơi… toàn bộ lớp véc-ni đã sờn tróc từng mảng, các khóa phím bằng nhựa trắng đã ngả màu vàng, quanh vòng tròn thoát âm có khảm một vòng giả đồi mồi đã trầy xước, thân đàn đã bong tróc lớp gỗ dán phía ngoài và được chủ của nó “trợ lực” bằng chằng chịt băng dính như một chiến binh trong quân y viện với màu sắc không thể ta bằng lời: vàng đất, xám xịt, nâu bẩn, véc-ni pha bụi, gỗ pha đất sét… đều đúng! Chỉ có duy nhất các phím kim loại của cây đàn là vẫn ánh lên màu thép do được các ngón tay thường xuyên lướt qua. Cây đàn nhẹ đến vừa độ, ấn vào các phím cảm giác mềm, rất vừa tay. Điều đặc biệt là âm thanh thì không chê vào đâu được. Tôi chuyển vài gam và chợt nhận ra một âm sắc đặc biệt chưa từng thấy các cây đàn khác… “một sự não ruột sâu lắng” thoát ra từ hộp đàn… và bao giờ tôi cũng thấy Lăng xúc động khi ôm đàn. Một lần tôi hỏi: “Ông  với cây đàn có uẩn khúc gì chăng?” Lăng bảo: “Nó không phải là một cây đàn thường đâu, trước đây nó đã từng của một người lính đối phương đấy. Anh muốn nghe không?”. Rồi Lăng kể cho tôi nghe:
“…Cuối năm 1975, trung đoàn xe tăng 574 chúng tôi được điều về đóng chốt tại phía tây tỉnh Quảng Nam giáp Lào, ngay thượng nguồn sông Thạch, con sông thất thường hay giở chứng trong mùa mưa lũ… Cuộc chiến vừa kết thúc, người ta hối hả với bao nhiêu là việc, ra Bắc nhận họ, vào Nam nhận “hàng”… Đất Quảng và cả miền Nam sau cuộc chiến, toàn thân lở loét những vết thương dữ dội của những hố bom pháo, hầm hào và cả trong tâm hồn con người. Thế mà không dưng chúng tôi lại lạc vào cái thung lũng hoang vắng này… giữa các triền núi thoai thoải, lau sậy um tùm và cánh rừng thưa.
Một buổi chiểu, sau khi cho xe vào lán, bảo dưỡng xong, tôi một mình lang thang vào sâu trong thung lúng, nơi khuất sau vách núi, thay vì đi ra đường Chín. Chiều hè, gió hun hút thổi từ Lào sang, khô nóng, lốm đốm những hoa dại màu vàng nhỏ li ti mọc sau cơn mưa. Ngay sau hàng rào là những cọc tre xô lệch, dốc lên một chút theo con đường mòn là một mái tranh trơ trọi, mấy đứa trẻ con sợ sệt. Tôi chào mẹ, nói lý do cuộc dạo và ngó quanh, nhà hoang tàn, trống vắng, nhưng bất ngờ khi thấy trên vách treo một cây ghi-ta. Tôi xin phép mẹ cầm xem và để làm dịu không khí căng thẳng, tôi chơi luôn hai bài “Quê em miền trung du” và “Bài ca hi vọng”… Tiếng đàn vừa vang lên, lũ trẻ đã ào vào. Tôi dường như sẵn sàng chờ sự náo nhiệt, láo nháo của chúng, giống bọn trẻ con ngoài Bắc mỗi khi nghe là im lặng… Chỉ khi tiếng đàn vừa dứt, chúng mới ùa sát vào tôi. Giữa mùi mồ hôi trẻ con nồng nặc và tiếng mắng mỏ của bà cụ, tôi lễ phép xim mẹ cho mượn cây đàn vài ngày để về tổ chức liên hoan cùng đơn vị. Bà ngần ngừ: “Chú chờ chút, con nhỏ nhà tôi sắp về đó… mà thôi, chú cứ cầm về đi!”. Tôi áy náy trong lòng, vốn là lính sinh viên, suốt mấy năm toàn dầu mỡ súng đạn, nay vớ được cây đàn như “buồn ngủ gặp chiếu manh”… mặt khạc, tôi đọc được điều gì đó băn khoăn trong là bà mẹ?...
 
 
 

none

11/07/2023 lúc 08:57






T





ôi không rành về kiến trúc, hội họa và cũng không giàu trí tưởng tượng. Cho đến một buổi sáng đầy nắng được thả mình vào không gian khoáng đạt nơi biển cả, được hòa vào dòng người bước những bước chân đầu tiên trên cầu Cửa Việt vạm vỡ giữa biển nước mênh mông, lúc đó tôi mới hình dung rằng, khi cầu Cửa Việt hoàn thành cùng với cầu Cửa Tùng giống như hai cánh tay của một lực sĩ có thân hình cường tráng là tuyến đường 9 đang nằm ''xoãi tay'' nơi cửa biển. Một sự tưởng tượng không giàu sắc màu nghệ thuật nhưng là hiện thân của niềm tin, của khát vọng từ bao đời nay của người dân Quảng Trị.
Chuyện người thợ cầu...  
Còn nhớ hơn mười lăm năm trước tại bến đò Tân Lợi (nay là nơi đứng chân cầu Cửa Việt), tôi háo hức cho lần vượt sông sang bờ Nam đi thực tế lấy tư liệu viết báo ở xã Triệu An và Đồn biên phòng Cửa Việt. Trời tháng sáu nắng gắt và gió Lào quạt lửa. Gió thổi cuộn lên từng ngọn sóng tung bọt trắng xóa phủ mạn thuyền. Tôi chao đảo theo sự ''lèo lái'' của một ngư phủ đã dạn dày với biển cả mà cứ ngỡ tim mình ''rơi'' khỏi lồng ngực. Thuyền chạm mép nước bờ nam, Huấn- chiến sĩ biên phòng được cử ra đón tôi tại bến lại òa cười khi nhìn thấy bộ dạng tội nghiệp và khuôn mặt tái mét của tôi. Đó là chuyến ''vượt sông'' đáng nhớ nhất trong đời mà tôi nguyện rằng sẽ không bao giờ có lần thứ hai.
Nhắc lại chuyện cũ để thấy lòng mình rộn ràng hơn khi đặt chân trên cầu Cửa Việt ngày hợp long. Tôi thấy bao gương mặt rạng ngời, những bó hoa tươi thắm được trao cho những người thợ đã ''lao tâm, khổ tứ'' với từng nhịp cầu nằm cận kề cửa biển nối hai huyện Gio Linh - Triệu Phong.
Có thể khẳng định rằng, cầu Cửa Việt là cây cầu lớn nhất Quảng Trị hiện nay với chiều dài trên tám trăm mét, gồm 11 trụ và 10 nhịp dẫn được thi công theo công nghệ hiện đại. Tôi nhớ hôm khánh thành cầu Cửa Tùng, một chuyên gia cầu đường đã bạo dạn hứa rằng, nếu có điều kiện họ sẽ tiếp tục thi công cầu Cửa Việt thành công trước những nghi ngại về địa chất, thủy văn và độ dài của cầu. Và hôm nay, tôi gặp lại nữ chuyên gia ấy trong ngày hợp long. Một mốc son đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc của ngành kỹ thuật cầu đường ở nước ta, một sự kiện trọng đại trong đời sống kinh tế -xã hội của người dân Quảng Trị.
Gặp Trương Quang Thọ, Đội trưởng Đội thi công của Công ty xây dựng cầu 75 là người đã gắn bó với cầu Cửa Việt từ những ngày đầu khởi công cho đến bây giờ, Thọ bồi hồi nhớ lại: "Dẫu đã tham gia thi công nhiều cây cầu trên cả nước nhưng em thấy cầu Cửa Việt là cây cầu mang lại cho bản thân nhiều kinh nghiệm nhất.
Đó là kinh nghiệm thi công cầu nơi cửa biển, phụ thuộc vào thủy triều và đặc biệt là phải chống chọi với gió Lào Quảng Trị. Gió thổi mạnh quá gây khó khăn cho công việc vận chuyển vật tư thiết bị ra tận nơi thi công. Địa chất ở cầu Cửa Việt hầu hết là cát. Máy khoan từ đáy xuống 20 mét nhưng vẫn còn gặp cát.
Và đặc thù của cát là kết cấu rời rạc nên rất khó cho việc đóng cọc nhồi. Để hoàn thành đúng tiến độ, Công ty phải thực hiện chủ trương tăng ca, tăng kíp. Bộ phận thi công được chia làm ba ca, bốn kíp triển khai đồng loạt các hạng mục như cọc khoan nhồi trụ, đúc dầm super T1. Bình quân một cọc phải sử dụng 130 khối bê tông, 13 tấn thép.
Riêng công nghệ đúc dầm super T1, đây là công nghệ hoàn toàn mới mà từ trước đến nay ở Quảng Trị chưa hề sử dụng. Công ty cầu 75 đảm nhận việc thi công từ mố 0T1 đến mố T6 nằm ở phía bắc thuộc địa phận thị trấn Cửa Việt, huyện Gio Linh.
Bao nhiêu khó khăn là thế nhưng em vẫn bám trụ với công việc bởi tự hào khi được tham gia chinh phục dòng sông nổi danh trong hai cuộc kháng chiến với nhiều trận đánh lịch sử...''. Tôi nhận ra từ lời bộc bạch của Thọ xen lẫn sự bùi ngùi, luyến lưu trong thời điểm sắp chia tay vùng đất này. Bình dị và giản đơn: ''Khi ta ở chỉ là nơi đất ở..."...
 
 
 

Đông Hà, đường lên phía trước

11/07/2023 lúc 08:57






1





 - Cách đây hơn hai mươi năm, tôi dẫn bạn gái hiền thương từ Huế về thăm quê. Chiếc xe đò hiệu Rờ Nôn cũ kỹ chạy bằng than với ống khói lực lưỡng phía sau, chốc chốc lại nhả những đốm tàn lửa xuống mặt đường nhựa gồ ghề, bốc từng làn hơi nhòa mặt người đi, rát bỏng dưới nắng. Xe đương chạy bỗng khựng lại bên đường. Đây đã là Dốc Sỏi. Không thể chờ đi tiếp một thôi đường ra cầu Đông Hà, chúng tôi xuống xe. Gió Lào như những vốc lửa táp vào mặt. Bụi đỏ quấn lấy chân người. Hàng quán, nhà cửa lè tè mái tôn nhuốm một màu hồng trong vần vũ gió cát, một màu u hoài và cam chịu. Bạn buột miệng, giọng Huế lạc đi trong nắng trưa:
- Răng không có chiếc xích lô mô rứa anh?
Tôi dắt tay em qua đường, cắm cúi dọc theo những thành tà vẹc để đi ra phía Bắc, lòng bần thần với câu hỏi cắc cớ của em. Xích lô? Làm sao một phương tiện đi lại thơi thới, khoan hòa như vậy lại có chỗ "dụng võ" ở đất quê tôi? Đông Hà từ bấy đến giờ nổi tiếng với ngọn gió Lào quái ác. Gió hoành hành từ ra giêng cho đến cận kề tháng bảy "nước nhảy qua bờ", cao điểm là tháng tư, tháng năm, tháng sáu, có khi lẹm cả vào  tháng tám "nắng nám trái bồng". Gió tựa bão, giật trên cấp chín, cấp mười. Trời cao xanh, gờn gợn. Nắng đưng lại, như rút hết tinh lực trên từng  cánh lá, trên từng ngọn cỏ, trên từng mặt nước, nắng nung đỏ mái nhà, rang cháy ruộng đồng, ngỡ như nắng có sức nén mãnh liệt, ấn tất cả vạn vật xuống mặt đất hầm hập. Người Đông Hà thời đó, cứ mùa nam nắng lại quét sạch nhà, trải chiếu ra đất, xoải tay, xoải chân hít hà mùi hăng ngọt nồng nàn từ từng thớ đất gan gà đầm nện lâu đời mà thành nền nhà trên, nhà dưới ánh bóng mồ hôi, mòn vẹt chân người. Đường Đông Hà ngắn như những nét sổ, ai đó cao hứng phóng bút ra rồi để đó, đường nửa như ngập ngừng, nửa còn dang dở, loi thoi đèo dốc, khúc khuỷu ngã ba, ngã tư, ngã năm dẫn vào những xóm an nhiên đường đất, nước giếng, đèn dầu. Sức vóc nào dám dấn pê đan xích lô, thách thức với gió giật, đường dốc, nắng nôi, bụi bặm ngút ngàn? Lại nữa, Đông Hà hồi đấy là "cái rốn" của hàng lậu. Hàng từ Lào, Thái Lan qua sông Sê pôn, thẩm lậu vào đất Việt, trà trộn trong hàng tấn thạch cao chở từ mỏ Đồng Hến bên bạn về cửa khẩu mỗi ngày hay theo các  đoàn xe quá cảnh Lào mượn đường Chín để vận chuyển hàng từ cảng Đà Nẵng qua Savanakhet. Thuốc lá Thạt Luông, Sa mít, No1, No2, đường hóa học, mỳ chính, quần bò, áo phông, áo Philakét... nườm nượp đổ về Đông Hà. Trên đất nước mình, chỉ có Đông Hà mới có một từ mang nhiều ẩn ý: "xơng lẹc". Dân "xơng lẹc" chọn việc tiêu thụ hàng lậu làm kế sinh nhai với phương thức mua bán, trao đổi chụp giật, lẹ làng.
Hàng lậu về đến Đông Hà, thương lái chất ngay lên xe Honda sáu bảy xoáy nòng hay Minxcơ "nồi đồng cối đá" và biến đi trong chớp mắt. Chở hàng lậu là chạy đua với thời gian, giành giật với mối lái, lẫn tránh cơ quan chức năng và cần đến sự tốc lực nhanh nhất có thể được, ai lại cậy nhờ  đến chiếc xích lô tốc độ tám ki lô mét một giờ khi trời yên gió lặng và tương đương với người đi bộ khi gió Lào nổi cơn cuồng nộ?
2-Tôi có trong tay một trong những bản ký âm đầu tiên của bài ca:"Đông Hà- thành phố tương lai" của nhạc sĩ Hoàng Sông Hương với những ca từ rất gợi: "Kìa xác xe tăng, xe là cốt thép, xi măng Đông Hà gạch ngói ta xây, xây lên tầng cao, cao mãi...". Cảm hứng bài ca chắc chắn đến với Hoàng Sông Hương khi ông đi ngang qua lô cốt nơi ngã ba dẫn lên đường Chín. Những chiếc xe tăng của Mỹ nằm đó, bất lực nghe kích thước  đất đai  dưới chân đang hồi sinh, vạm vỡ từng ngày.
Nhưng người nhắc đến Đông Hà với tên gọi  thành phố một cách trìu mến và cảm phục đầu tiên phải là nhà báo Magali Gacxia đến từ đất nước Cu ba anh em khi anh tháp tùng Thủ tướng Phi đen-Caxtrô thăm vùng giải phóng Quảng Trị năm 1973:" Đông Hà hiện lên trong đêm tối như một đóa hoa rực rỡ...Trời đã tối, ánh sáng của thành phố phản chiếu xuống dòng Hiếu Giang. Thành phố nhộn nhịp mặc dù trời mưa phùn lấm tấm bất chợt từng lúc, người đi đường vẫn đứng lại trước người bán kem, trước  hiệu sách hoặc trước phòng thông tin. Tất cả những cái đó làm cho thành phố có một nét vui tươi...". Nhà báo Mohamet Xaiđani đến từ Angiêri lại chớp lấy một khoảnh khắc nhân văn rất cảm động của người Đông Hà khi vừa gầy dựng lại cuộc sống từ đống tro tàn:" Chúng tôi chậm rãi đi vào trong thành phố đổ nát. Nhưng giữa những đống vôi gạch ngỗn ngang ấy, tôi sửng sốt nhìn thấy một người bán  kem. Cửa hàng của ông ta mới sửa chữa lại, rất đông khách. Một cử chỉ hữu nghị: một  người tách ra khỏi đám đông, tặng chúng tôi phần lớn những que kem anh vừa mua được..."...
 
 
 

Mắt lửa đêm áp tết

11/07/2023 lúc 08:57






Đ





ó là thứ ánh sáng diệu kỳ được thắp lên trong những đêm cận kề tết cổ truyền. Dĩ nhiên, không phải điều diệu kỳ nào cũng được khởi nguyên từ những thứ cao siêu, ví như ánh lửa mà tôi sắp kể ra đây được đốt lên từ những gì bình dị nhất, nhà quê nhất, thậm chí là đã phế bỏ đi nhưng vẫn có thể sáng. Cũng nhờ đó mà tôi biết rằng, ở đời này mọi thứ dù tầm thường đến đâu cũng có thể lung linh được, con người hay vật vô tri đều vậy.
Càng về cuối năm, trời đêm càng tối hơn. Những đốm sáng lửa hắt lên và vì thế mà đêm được tỏ hơn, rạng hơn nhờ sự tương phản. Tháng chạp âm lịch mình nhằm vào tiết mùa xuân, nhưng dường như đêm tháng chạp thì vẫn còn duyên nợ với tiết mùa đông của năm cũ nên nó tối om om, chỉ cần có một ánh lửa nhỏ nào đó cháy lên thì ngay lập tức bóng đen như vỡ tan đi. Trong ký ức tôi vẫn còn nhớ tiếng trẻ con hò reo khi nhìn thấy lửa đêm tháng chạp. Thằng bạn gọi ánh lửa ấy là “mắt lửa” nhìn xuyên qua đêm. Nó nói cứ tới độ này thì Tổ tiên về ăn tết với gia đình, các Ngài khai khẩn khai canh cũng về ăn tết với làng, mắt lửa chính là mắt của hiện thân người đi trước. Trẻ con đứa nào cũng sợ ma, nhưng lại thích cái cách giải thích của thằng bạn, bởi Tổ tiên mình dù mất đi rồi nhưng không phải là ma! Và những ánh mắt lửa trở nên ấm áp hơn bao giờ hết.
1. Bắt đầu từ giữa tháng chạp, lũ trẻ chúng tôi đi tới mấy quán sửa xe đạp kiếm cái lốp và xăm xe người ta bỏ đi. Chúng tôi đem về giấu sau bụi chuối nương nhà, đến tối thì huýt sáo gọi nhau ra đồng làng. Cánh đồng những đêm hôm đó tối lắm, lúa vụ đông-xuân mới gieo hai mươi ngày nên còn thấp. Chúng tôi dắt nhau men theo những chân ruộng ra tới giữa đồng, ở đây như một thung lũng lúa nhìn bốn phía đều có nhà người dân. Cắm một chiếc cọc tre cao tầm người, chúng tôi móc chiếc lốp xe lên đó rồi châm lửa đốt. Cái lốp xe nhựa cao su cứng dai nên châm hơi khó đỏ, một lúc sau lốp bắt lửa và cháy, đến khi đó thì đố mà dập cho nó tắt được. Khi ánh lửa bắt đầu bén cháy, cả lũ trẻ nhảy nhót hò reo cháy rồi cháy rồi! Màn đêm đang đen đặc bỗng dưng lộ ra một đốm lửa phừng phừng lên, mắt lũ trẻ trong đêm cũng rói lên những niềm vui. Một đứa cầm tấm tôn sắt mỏng, đứa kia cầm cái dùi tre gõ kêu thèng thèng như chiêng. Một đứa khác lại cầm cái hộp nhựa, rồi một đứa nữa cầm cái dùi đánh vào thùng thùng như trống. Tất cả đứng trên bờ ruộng, bên kia ánh lửa cháy rực lên soi sáng những khuôn mặt trẻ thơ. Cánh đồng như thể đang vào một mùa vũ hội cuối năm. Từ trong xóm, nhà ai rim mứt gừng chuẩn bị đón tết, mùi gừng quyện đường lan ra tới tận giữa đồng; lại có nhà ai đang đánh trứng đỗ bánh thuẫn, mùi trứng thơm ngào chạy ra chơi cùng lũ trẻ con.
Lốp xe cháy lên màu lửa đẹp và lạ, ở đoạn chân lửa thì nó có màu vàng, khúc ngọn thì màu đỏ; nhìn vào cứ như lửa là đôi mắt chim công, vuốt nhọn sắc lẽm, hay là một lưỡi kiếm chém đi những xui xẻo trong năm qua. Lửa lốp xe lan nhanh nhưng cháy rất chậm, chốc sau toàn cái bánh xe đã đỏ cháy tạo thành một chiếc vòng lửa giữa đồng. Đứng xa nhìn sẽ thấy chiếc vòng này như một con mắt lửa tròn trịa, ở giữa mắt là một cái tròng đen, xung quanh lửa hắt lên thành  những sợi lông mi bằng lửa.
Thằng bạn nói mình dùng lửa, dùng tiếng động của thùng của tôn, tiếng hò hét...là để đánh thức cánh đồng làng trỗi dậy, đánh thức những cây lúa đừng ngủ quên mà hãy cố gắng cho hạt vào mùa tới. Trò chơi trẻ con ấy thành ra một thứ tín ngưỡng tuổi thơ rất đẹp và ý nghĩa.
Đêm nào không có lốp xe thì chúng tôi đan những con tít bằng rơm. Ở quê, cứ xong mùa nhà ai cũng có một cái đống rơm to và cao cỡ mái nhà, rơm này dùng làm chất đốt và cho trâu bò ăn vào mùa lạnh. Trẻ con chúng tôi chạy đi rút trộm rơm (nghe đâu trong tất cả các loại trộm thì trộm rơm không có tội!), hoặc mỗi đứa tự về rút rơm nhà mình để chơi, cái kiểu “phá nhà” của người quê thì cũng chừng ấy là cùng, như Hoàng Cầm trong bài thơ “Cây tam cúc” có câu “rút trộm rơm nhà đi trải ổ”. Sau đó mấy đứa tập hợp lại và bắt đầu bện tít. Đan tít rơm cũng gần như đàn bà đan tít tóc, tức là lấy từng nắm rơm rồi bện chéo qua lại cho nó thành ra một con tít to cỡ bắp chân, dài cỡ sải tay. Tít rơm cháy lên có khác với cái lốp xe là ở chỗ khi cháy xong nó còn lại một cục than hồng bằng rơm đỏ ngòm, nhét vào đó củ khoai thì lúc sau mùi vỏ khoai cháy ngậy lên mùi thơm quê nhà, đó là lúc lấy khoai ra bóc chia nhau ăn...
 
 
 

Khoán ước trăm năm

11/07/2023 lúc 08:57






N





ằm im lìm phủ bụi tại miếu khai canh trong suốt ba mươi năm (năm 1945 - 1975) cũng bởi đất làng Phú Kinh (xã Hải Hòa, Hải Lăng) qua bao phen binh lửa, đạn bom từ giặc Pháp cho đến giặc Mỹ. Mười hai năm sau ngày dân làng tứ tán bởi chiến tranh quay về dọn đống gạch vỡ, dựng lại mái nhà xưa trên đất làng thì phiến gỗ lim nghìn tuổi khắc dày đặc chữ Hán cất giấu ở miếu khai canh dần bị lãng quên trong trí nhớ người làng vì lý do người làng không hiểu nội dung chữ nghĩacủa các bậc tiền nhân để lại. Tất cả chỉ được hé lộ trong một ngày đẹp trời (khoảng tháng 3 năm 1987) khi đoàn giảng viên, sinh viên Khoa sử (Trường Đại học tổng hợp Huế) trong chuyến điền dã để nghiên cứu gia phả tộc họ cũng như lịch sử hệ thống làng, xã của các tỉnh miền Trung đã vềvùng “chiêm trũng” Hải Hòa tìm thấy và tiến hành dịch thuật. Những con chữ tượng hình yên ngủ trên phiến gỗ lim được giải mã thành bản Khoán ước Phú Kinh với các quy định về phân chia ruộng đất “vĩnh nghiệp”; khuyến học, khuyến tài; giữ gìn an ninh trật tự và nếp sống văn minh được các viên chức, hương lão của làng soạn thảo cách đây hai trăm ba mươi tư năm vẫn còn nguyên tính thời sự cho đến tận ngày hôm nay.
Quá tò mò trước số phận thăng trầm của bản Khoán ước thành văn có lẽ là sớm nhất miền Trung, tôi tìm về làng Phú Kinh trong tiết trời se lạnh của một ngày cuối năm để mong hiểu biết thêm về gốc rễ, nguồn cội văn hiến của một làng quê nằm cuối dòng sông Ô Lâu. Sau tuần hương dâng lên các đấng khai canh, lập làng, ông Lê Hồng, Trưởng thôn Phú Kinh dẫn tôi đến bên bảnKhoán ước được dựng trang trọng tại đình làng và cho biết: Theo những người cao tuổi trong làng thì trước năm 1945, bản Khoán ước Phú Kinh được dựng tại đình làng. Sau đó, đình làng bị bom, đạn giặc Pháp rồi giặc Mỹ tàn phá nên người làng mới mang bản Khoán ước cất giấu ở miếu khai canh của làng. Ngày đất nước thống nhất, người làng trở về làm ăn sinh sống trên đất làng và nhiều lần trùng tu, tôn tạo miếu khai canh đã nhìn thấy phiến gỗ lim dài 2,4 m, rộng 0,35m, dày 0,06m khắc đầy chữ Hán. Lúc ấy, do người làng không ai biết chữ Hán nên không hiểu nội dung ghi chép những gì. Tuy nhiên, nhiều người làng với suy nghĩ phiến gỗ ghi dày đặc chữ Hán kia chắc có ý nghĩa lịch sử gì đó có liên quan đến làng, đến xã nên họ cẩn thận cất giữ. Mãi đến năm 1987 qua bản dịch thuật toàn văn nội dung ghi trên phiến gỗ của các giảng viên Khoa sử (Trường Đại học tổng hợp Huế) thì người làng mới biết đó là bản Khoán ước do các viên chức, hương lão của làng soạn thảo vào ngày cốc nhật, thượng tuần tháng cuối mùa hạ (năm Giáp Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng - năm 1774). Bản dịch Khoán ước hiện đang được các giảng viên lưu trữ tại Khoa sử (Trường Đại học khoa học Huế) để phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử hình thành làng, xã. Để làm sáng tỏ lịch sử hình thành nên đất làng cũng như khơi gợi niềm tự hào của con người làng về miền đất Phú Kinh văn hiến lâu đời, năm 2002 ông cùng một số người làng đã lặn lội vào tận tỉnh Thừa Thiên Huế để in ấn rồi mang toàn văn bản Khoán ước về làng.
Nhận từ tay ông Hồng toàn văn bản Khoán ước Phú Kinh, tôi lần giở từng trang để rồi đi từ bất ngời thú vị này đến bất ngờ thú vị khác trước sự văn minh, công bằng, tình thương và lẽ phải mà các viên chức, hương lão thôn Phú Kinh hướng đến trong bối cảnh của thể kỷ XVII khi vua, chúa, quan lại không ngừng vơ vét, bóc lột của người dân lao động bằng chính sách tô thuế hà khắc để phục vụ cho lòng tham vô đáy của mình. Khoán ước Phú Kinh ghi “Làng ta ở nơi cồn nước cằn cỗi, không có vườn tược riêng chỉ nhờ vào những khẩu phần công điền để hàng năm cày cấy và chịu thuế. Thế nhưng, việc quân cấp công điền thì hai bậc viên quan, viên chức ở trên chiếm trước đến bọn dân thường hạng ba phải cam chịu bậc dưới, phải nhận phần ruộng đất đá sỏi, hoang vu nên dù có ra sức cày cấy cũng không đủ nộp thuế, thậm chí phải bán vợ, đợ con đến nỗi phải bỏ làng ra đi trở nên thất nghiệp. Cái tệ nạn không công bằng ấy, không cần phải chời đợi sự phân tích cũng thấy đủ rồi”. Để khắc phục tình trạng không công bằng trong phân chia ruộng đất và hướng đến việc người dân có được mảnh ruộng để cấy cày, chăm bón suốt đời, Khoán ước chỉ ra cách giải quyết với nhiều quy định khá chặt chẽ như “Nay viên chức làng xã họp bàn, phỏng theo phép tắc xa xưa, lấy những nơi ruộng đá sỏi chia đều cho mọi người dân lớp dưới để họ được làm chủ đời đời, cha truyền con nối, anh chết em thay, khuyên nhau cày cấy chuyên cần để số ruộng đất đá sỏi, cằn cỗi ấy trở nên ruộng tốt. Như thế thì đồng ruộng được mở rộng ra, bảo đảm thuế khóa cho nhà nước, nhân dân sẽ no đủ, việc tiêu dùng hàng ngày nhờ đó cũng dễ dàng hơn”… 
 

Tấc vàng lòng dân

11/07/2023 lúc 08:57







H





ơn 12.000 m2 đất đang canh tác lúa nước, sắn, trồng cây ăn quả, đất thổ cư, đất vườn được đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa Cô không ngần ngại hiến tặng để huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) đầu tư xây dựng trường Mầm non, Tiểu học, THCS, Trung tâm học tập cộng đồng cũng như hoàn thiện hệ thống giao thông nông thôn. Kết quả đầy ý nghĩa đó thu được sau 3  năm thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà huyện Hướng Hóa chú trọng triển khai sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn huyện.
Rủ nhau hiến đất xây trường      
Trong cuộc họp triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cho cán bộ, đảng viên, nhân dân xã Hướng Lộc (Hướng Hóa), khi nghe xong nội dung, có mấy vị già làng, trưởng bản đứng dậy xin phát biểu ý kiến: “Bác Hồ vĩ đại lắm, bọn miềng làm răng mà học được Bác”. Cán bộ Ban chỉ đạo cuộc vận động xã giải thích: “Đồng ý với các bác là Bác Hồ .....

Nghẹn ngào một chút sẻ chia

11/07/2023 lúc 08:57






5





h sáng ngày 12-10-2009, đoàn công tác của Quỹ Trái tim nhân ái -Báo Hà Nội mới lên đường tiếp tục hỗ trợ bà con các vùng bị thiệt hại do cơn bão Ketsana gây ra. Chúng tôi biết, mình lại đang lao vào chính vùng ảnh hưởng của cơn bão số 10. Ấy là chuyện của ông trời, chúng tôi vẫn đi.
Sắp bão, thời tiết xem chừng đã dịu hơn. Cứ cầu mong đừng mưa to, giông xoáy không phải cho yên thân mình mà cho những mảnh đời giờ không chỉ tấc đất cấy cày cũng không còn, mà chỗ chui ra chui vào cũng theo lũ hết rồi.
Chúng tôi đếm từng cột cây số, bấm giờ mong sao đến được Quảng Trị sớm giờ nào hay giờ ấy. 600 cây số chẳng xa, mà đâu cũng có gần, chúng tôi biết hôm nay không thể kịp vào với bà con Pa cô, Vân Kiều của Đakrông. Đêm dừng lại ở Đông Hà chính là đêm nhiều dằn vặt nhất.
Sáng nay 13-10, Tổng biên tập báo Quảng Trị Nguyễn Hà Phương có việc bận không đi cùng đoàn về Đakrông, nhưng 6h đã thấy Phó tổng biên tập Minh Tứ cùng nữ phóng viên Ngân Hoa đến để đưa chúng tôi xuống tận xã Pa Nang, nơi có mấy bản bị thiệt hại nặng nề nhất trong cơn bão lũ vừa qua.
Đường 9 với những địa danh oanh liệt một thời như Khe Sanh, Lao Bảo, Làng Vây, Đầu Mầu…. hiện lên trên từng cột mốc cây số. Cam Lộ, Tân Lâm ngày nào dày đặc hố bom, hố pháo đến đất cũng xạm màu khói đạn, giờ đã thấy màu xanh trở lại. Những vạt đồi xưa đỏ màu đất đá, tím tái màu lửa Napan giờ đã thành làng, thành phố, thành rừng.
Không có thời gian, cũng chẳng khách khí màu mè, đến UBND huyện Đakrông, chúng tôi vào việc ngay. Kéo chúng tôi ngồi, vừa thân mật ”Mời các anh xơi tạm cốc nước lọc”, Chủ tịch UBND huyện, anh Vũ Đình Hòe tranh thủ trao đổi công việc với anh Kiều Ngọc Kim, Phó tổng biên tập báo, Trưởng đoàn công tác của Quỹ. Thống nhất kế hoạch, phương án hỗ trợ cách thức thực hiện công việc. Chỉ đúng 15 phút, chúng tôi lại lên đường.
Đakrông nghèo quá! Cả huyện có diện tích tự nhiên lên tới 1.223 km2 mà chỉ chưa đầy 5.000 ha đất có thể canh tác cây lương thực, còn lại là đất đồi rừng. Với 7.200 hộ, 40.000 nhân khẩu, trong đó 80% là đồng bào các dân tộc Pa Cô, Vân Kiều, cuộc sống của bà con còn gặp muôn vàn khó khăn. 10/14 xã, thị trấn của huyện Đakrông thuộc diện nghèo, nên trong danh sách 62 huyện nghèo của cả nước, Đakrông còn được xếp vào diện gần như nghèo nhất.
Người Pa Cô, người Vân Kiều theo Đảng, theo cách mạng chở che cho bộ đội hết lòng trong những ngày gian khó, để rồi đến cái họ của bà con cũng được mang họ của Bác, nên hầu như cán bộ đã về với Đakrông  cảm cái tình ấy mà không nỡ rời xa. Anh Vũ Đình Hòe, là học sinh miền Nam tập kết ra Bắc năm 1968. Ở Quảng Ninh, rồi về học Đại học Nông Nghiệp i Hà Nội. Năm 1977, tốt nghiệp ra trường, anh về Hướng Hóa (đất Đakrông bây giờ) thế là ở luôn từ ngày còn là một anh cán bộ phong trào của huyện, đến giờ là chủ tịch, vất vả lắm mà vẫn bảo “bà con ở đây tốt lắm, đi sao được!”
Qua cầu treo Đakrông rẽ vào đường 14, giờ gọi là đường Hồ Chí Minh đã thấy dấu ấn rõ nét của cơn bão lũ. Anh Lê Đắc Quỳ, người con trai đất thành Nam, vốn dân Đại học Kinh tế quốc dân vào Đakrông từ năm 1982 ngay sau khi tốt nghiệp, giờ là phó chủ tịch UBND huyện cho biết: Đây là trận lũ lịch sử mà 40 năm chưa từng có”.
Tuyến đường Hồ Chí Minh qua địa phận Đakrông dài 72 km mà có tới hơn 50 điểm sạt lở, trong đó có 5 điểm sạt lở nghiêm trọng mà việc khắc phục không phải một sớm một chiều.
8km từ cầu treo Đakrông rẽ vào đường về xã Pa Nang, chúng tôi gặp chiếc máy xúc đang bò ra giữa đường mà ngoạm, mà đẩy hàng khối đất đá đang chẹn giữa lòng đường ở đúng km 256, cột cây số ghi: A Lưới 86km.
  Đường vào Pa Nang hôm nay đã tạm thông, nhưng nhìn trên nền bê tông mà JBiC (một tổ chức phi chính phủ của Nhật Bản) mới đầu tư chưa đầy 2 năm, mới biết con lũ dữ thế nào. Đá, sỏi chảy thành vệt trên lòng đường chỗ bằng phẳng; Còn chỗ dốc, đất đá chỉ được vun tạm lên cho vừa lọt bánh xe cũng cao tới cả thước. Hàng cột điện chỉ để treo mỗi một sợi dây cáp thông tin, cái bị đánh bật cả khối bê tông chôn cột nằm vắt vẻo trên sườn ta luy, cái bị đánh tung bê tông trơ ra mấy thanh sắt cốt bị bẻ đến cong queo.
Chúng tôi nhờ người lái xe hạ giùm tấm kính để cảm rõ hơn mùi vị đất rừng sau lũ. Dòng Đakrông vẫn ngầu đục màu bùn đất. Gió ào qua cửa kính mang theo mùi hoai hoai của cỏ cây chết trong bão lũ giờ đang thối rữa.
Pa Nang có 840 hộ với 2.777 nhân khẩu, ở rải rác thành 9 thôn, thì cả 9 đều bị thiệt hại. 3 thôn A La, Tà Rét, Pa Nang bị thiệt hại nặng nhất với 14 hộ sập nhà, bị lũ cuốn trôi hết tài sản, trong đó có 5 hộ bị cuốn băng toàn bộ nhà cửa.
Đứng trên nền căn nhà của vợ chồng anh Hồ Văn My, chị Hồ Thị Ba chỉ còn sót lại mấy tấm bê tông kê chân cột, chúng tôi càng cảm nhận rõ hơn cái ác liệt của cơn cuồng thủy vừa qua. Bản A La về đây ở đã mấy chục năm rồi. Hàng cây mít sau nhà chị Ba, anh My cũng có vài chục năm tuổi rồi, vậy mà giờ nó bị đánh bật tung cả gốc, nằm vật bên góc đồi. Phía sau lưng căn nhà anh chị, vạt rừng ven dòng Đakrông kéo thành một vệt dài của cây, của lá đã ngả sang màu úa nát. Chúng tôi ước chừng, nếu con lũ cuốn phăng căn nhà này đi, thì từ lòng sông kia lên đến sàn nhà này, độ cao cũng tầm ba chục thước. Ba chục thước, vậy cả vùng núi rừng này sẽ trắng trong màu nước.
  Đúng vậy. Ông Pả Bình, Chủ tịch UBND xã nói rằng: “Toàn nước là nước mà. Ôm lấy nhau mà trốn trong nhà thôi. Ra làm sao được”...
 

Lắng nghe những bồi âm

11/07/2023 lúc 08:57






B





uổi sáng chúng tôi dừng chân ở cửa khẩu Lao Bảo. Trưa ào sang La Lay. Hoàng hôn xuống đã dập dồn trên sóng nước cảng biển Cửa Việt. Một ngày qua ba cửa hải quan quả là kỷ lục chạy đua với thời gian rồi còn gì. Và, khi bồng bềnh bập bênh ở cửa cảng này rồi thì mới thấy lớp lớp khuôn hình cùng mọi thanh âm thu nhận được có những bồi âm vang dội lạ thường. Ôi, những bồi âm thấp thoáng ẩn hiện lúc gần lúc xa!..
1- Bây giờ đến Lao Bảo thì không cần mất nhiều giấy bút thời gian để ghi nhận cái đô hội nhộn nhịp sầm uất trên con đường xuyên Á nói chung và cái điểm nhấn của nó là cửa khẩu quốc tế này thêm làm gì nữa. Nói là nói vậy chứ mỗi lần ghé qua chúng ta không thể không quan tâm tới bồi âm của nó cùng với con đường xuyên Á trong tương quan với một cửa khẩu khác sinh sau đẻ muộn là La Lay nhưng chẳng khác gì là hai chàng trai song sinh cả.
Âm bản con đường 9 ư ? Nó được người Pháp thực dân chú ý khai thác từ rất sớm nhưng cũng phải mất gần một trăm năm sau mới phôi thai vỡ vạc ra bóng dáng con đường, ấy là xét việc khai thác dưới khía cạnh kinh tế và dân dụng. Người Mỹ khai thác con đường này ở khía cạnh quân sự và thật là thảm hại bởi đã biến con đường 9 thành cửa tử, con đường chết. Thời Bình Trị Thiên, chính xác cách đây hai mươi năm khi lập lại tỉnh, ngoài hàng lậu và những đoàn xe chen chúc nối đuôi nhau vận tải hàng hóa xuất nhập cảnh thì Lao Bảo cũng chỉ là một vùng đất bạt ngàn lau sậy, tờ tợ cái cửa khẩu quốc gia La Lay bây giờ mà thôi.
Kể từ Hội nghị Bộ trưởng tiểu vùng sông Mê Kông lần thứ tám (1998), con đường 9 mới khẳng định được vị thế riêng của mình qua sáng kiến Hành lang kinh tế Đông Tây thúc đẩy sự phát triển và hội nhập kinh tế giữa bốn quốc gia Lào, Mianmar, Thái Lan, Việt Nam. Cái hành lang này chính thức thông tuyến vào ngày 20.12.2006, khi cầu Hữu Nghị II được cắt băng khánh thành, hai bờ Thái Bình Dương chính thức được nối với Ấn Độ Dương chiều dài chưa đầy một nghìn năm trăm cây số…Đã thông tuyến nâng cấp con đường rồi thì không chỉ Hải quan nơi cửa khẩu quốc tế này phải rủ bỏ mọi thứ nghèo nàn lạc hậu, tự  khắc phải “lên đời” mà các ngành hữu quan cũng phải vào cuộc, tạo ra một hành lang xuất nhập khẩu thông thoáng, lành mạnh. Phải đổi mới, thay đổi tư duy, từ việc áp dụng thu lệ phí bằng tem có mệnh giá, “quản lý rủi ro” bằng cách cho doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về những điều mình khai báo đến áp dụng đồng bộ công nghệ thông tin vào vào việc quản lý ngành Hải quan thì về cơ bản cái cửa khẩu quốc tế Lao Bảo của ta mới chấm dứt bao nhiêu là nhiêu khê từng ngự trị, gây ra không biết bao nhiêu là phiền phức nhũng nhiễu cho khách hàng. Bấy nhiêu biện pháp đã tích cực  góp phần vào việc giải phóng nhanh lượng xe, hàng hoá, hành khách. Quả là không có gì quý bằng tự do thoải mái mỗi lần qua cửa khẩu!..      
Bây giờ ngồi ở Cục Hải quan Quảng Trị ta đã có thể ung dung kiểm soát, hứng lên họp hoặc giao ban trực tuyến qua mạng với Hải quan cửa khẩu quốc tế Lao Bảo; khu Kinh tế- Thương mại đặc biệt Lao Bảo hay cả cửa khẩu cảng Cửa Việt ở Km O của con đường xuyên Á. Tất cả đã giúp cho ngành hải quan Quảng Trị tận dụng mang lại nguồn thu cao nhất cho đất nước, quê nhà trong một môi trường giao tiếp hết sức thông thoáng, vừa công bằng dân chủ và lịch sự văn minh. Những con số đang từng ngày từng giờ sinh sôi nảy nở ở “đô thị vàng trên đồi Lao Bảo”. Kim ngạch xuất khẩu mười năm qua ở cửa khẩu quốc tế Lao Bảo này đều đặn tăng 14% trên năm, năm 2008 xấp xỉ một trăm bốn mươi chín triệu đô- la Mỹ. Tôi chăm chú nhất vẫn là  ba năm từ 2006 đến 2008, khi mà nền kinh tế thế giới đang chạm vào đáy của sự khủng hoảng, suy thoái thì ở cửa khẩu Lao Bảo ta đây vẫn đều đặn đạt con số kỷ lục gần 50% trên năm…. Nếu như năm 1999 có năm mươi nghìn lượt khách xuất nhập cảnh qua cửa khẩu này thì nay tăng lên bốn trăm nghìn lượt, mỗi ngày ước có ba trăm xe nhập cảnh vào khu vực, một trăm năm mươi xe xuất cảnh ra nước ngoài.
   Đã thấy xuất hiện một “đô thị vàng trên đồi Lao Bảo” mỗi khi ghé qua đặc khu Kinh tế- thương maị tự do Lao Bảo và nhất là lắng nghe những bồi âm thuận từ phía con đường, nhịp cầu xuyên Á….
2- Cửa khẩu La Lay, đến vào lúc 12 h trưa lóa mắt, chỉ toàn là nắng!
Các đồng nghiệp chúng tôi, nhất là các nhà thơ rưng rức bổi hổi bồi hồi. Vừa đặt chân đến nhà thơ Hoàng Tấn Trung đã kịp làm cái công việc của anh họa sĩ giương giá vẽ phác thảo ký hoạ ngay bức tranh trần chẳng cần tô điểm. Từ con đường rất thực rất ảo: Con đường Tà Rụt La Lay/ Gập gềnh khúc khuỷu bụi bay nắng tràn... đến cảnh vật thiên nhiên nơi đây hoang dã đến mỹ lệ và mộng mơ quá thể: Cũng giàn mướp trỗ hoa vàng/ Cũng hồ nuôi cá, vịt, ngan, lợn, gà/ Đàn dê óng ả mượt mà/ Nước trong tự chảy suối xa đem về/ Ngôi nhà như thực như mê/ Có người chiến sĩ Hải quan đi về…Cơ chi mà thi sĩ Nguyễn Bính sống lại lên đây, nhà thơ sẽ ở lại Chi cục Hải quan La Lay mất không theo đoàn toán lều trại sáng tác anh em ta về xuôi nữa! Nữ sĩ Hoài Nhạn chia bơi nỗi niềm với các chiến sĩ Hải quan giữa chốn biên cương xa xôi hẻo lánh này: Trạm Hải quan/ Căn nhà nhỏ mái tôn hoen ố thời gian/ Như chiếc lá mong manh giữa đại ngàn rừng thẳm/ Đêm mùa đông lạnh như cứa thịt/ Trưa nắng hè nắng tựa chảo rang... Rồi: Đêm La Lay đường biên u tịch/ Tiếng hoảng kêu tan tác lạc đàn/ Cơn gió chướng bẻ cong sườn núi/ Trận mưa nguồn lăn đá ầm ầm rơi!.. .
 

Trại viết dưới chân Thành Cổ

11/07/2023 lúc 08:57






N





ăm ấy, sau 81 ngày đêm chiến đấu ngoan cường, bộ đội  ta đành rút bỏ Cổ Thành Quảng Trị khi nó chỉ còn là một đống gạch đá vụn nát bên sông Thạch Hãn, lửa vẫn cháy ngun ngút suốt mấy tháng ròng. Con sông như là giới tuyến tạm thời phân cách cho hai phía. Bên kia Thành Cổ địch tái chiếm, bên này là vùng giải phóng. Mặt trận B5 đã tổ chức trại viết ở làng Trà Liên nằm kề bên sông Thạch Hãn, một làng quê vốn trù phú nhưng đã bị B52 băm nát, những hàng tre bật gốc, tươm tướp chĩa lên trời, nhà cửa trống trơ không có bóng người, dân làng sơ tán ra Bắc bỏ lại ngôi làng hoang vắng, ảm đạm.
Trại viết quy tụ nhiều cây viết chiến trường có chừng hai chôc trại viên, nhiều người đã thành danh như Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Quang Tính, Lý Hoài Xuân.... Trại do anh Vũ Thuộc, Tổng biên tập báo Tiền Tuyến (tiền thân của báo Quân khu 4)  phụ trách.
Chúng tôi được phân theo nhóm, ở quây quần trong những căn nhà rường gỗ mít đỏ ong. Những ngôi nhà mà ngày nay chỉ còn lại ở những làng cổ được bảo tồn như minh chứng cho một nền văn minh nhà vườn thoáng đãng, thanh lịch, trong lành như khí chất của những bậc nho nhã. Ban ngày chúng tôi vào bàn viết. Bàn là những hòm đạn được gia công tiện lợi có thể gấp lại mỗi khi di chuyển.
Cuộc chiến đang vào hồi kết thúc, địch tăng cường lấn chiếm những vùng đất đã giải phóng và bị quân ta phản kích quyết liệt, nhiều câu chuyện thương tâm xẩy ra, nên tư liệu phong phú. Vào trại anh nào cũng lấy ni lông quây lại để không ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng tôi háo hức lao vào viết bởi đây là thời gian quý nhất chỉ dành cho sáng tác mà thôi.
Những buổi chiều, rời bàn viết chúng tôi chia nhau thành hai đội bóng chuyền ra sân thao diễn. Bên kia bờ Thạch Hãn, những tên lính Cộng hòa mang súng lè kè đi lại canh chừng. Họ nhìn sang bên này thấy chúng tôi bình nhiên tạo những pha bóng đẹp mắt, tiếng vỗ tay dội lên mặt sông lan qua sân bóng cổ vũ anh em tôi hăng hái hơn. Thế mới hay, thể thao là không biên giới. Ngày thường hai bên đụng độ thì khạc lửa vào nhau nhưng bây giờ là tinh thần thể thao. Hồi ấy tôi mới hai mươi tuổi, sức trẻ rất linh lợi nên được anh Vũ Thuộc bố trí làm cây nêu cho anh. Anh cao lớn, mỗi khi có bóng, tôi đệm rất tròn trịa, bóng đưa đúng tầm nhảy, anh cứ thế nện xuống như búa bổ. Bên kia sân, anh em không đỡ nổi đành phải né mình để không phải dính đòn.
Trại viết có nhiều nhân vật tài hoa không chỉ thơ phú mà còn thạo nhiều ngón chơi độc đáo. Có anh thì giỏi ảo thuật. Chỉ cần hai cái bát thôi là có thể đánh tráo những viên bi mà mắt ta không hề nhìn thấy. Có anh buộc sîi chỉ vào chiếc nhÉn đeo tay lắc vòng trên bàn tay là có thể nói đúng đứa con đầu lòng là trai hay gái. Ngày ấy chị Thùy Liên là nhân vật được làm thử nghiệm mà sau này chị đẻ con trai thật.
Tôi còn nhớ anh Tạ Đính, một cây bút văn xuôi nhưng là phiên dịch tiếng Anh khi khai thác tù binh Mỹ, anh nói với tôi rằng, mình có số đào hoa nên đóng quân nơi nào có con gái thì y như là có chuyện. Nhiều cô say anh như điếu đổ. Anh hỏi tôi, cậu biết vì sao không, vì mình có tới 34 chiếc răng, hơn người thường hai chiếc. Tạ Đính là một anh lính nghiện chè Thái đến khê cả hàm răng. Thiếu chè, anh có thể đổi hết áo, quần, tăng, võng cho tới chiếc quần lót cuối cùng. Không chỉ nghiện chè, anh còn ghiền cà phê hơn cơm. Nhìn anh thao diễn kỹ thuật gi· cà phê tôi bái phục anh. Chỉ một vốc gạo vo sạch, anh cho lên chảo rang đun nhỏ lửa một lúc rồi quẹt diêm chấm vào, ngọn lửa xanh lét bốc lên, anh bưng chảo gạo lắc nhẹ cho tắt löa rồi đổ ra chiếc vung quân dụng. Thế là có một mẻ cà phê ngon. Lúc đầu tôi không tin, nhưng khi anh pha cho tôi thử một cốc, mới nhấp một ngụm, tôi ngộ ra, trời ôi, đúng là có mùi cà phê thật.
Trại viết có nhiều anh quê miền Bắc nên nếp sống có nét riêng, nhất là ngôn ngữ giao tiếp, văn hóa vùng miền giao thoa và biến tiếp tạo cho nhau hiểu biết nhiều hơn.
Đến bữa thổi cơm, chúng tôi đi kiếm rau dại về nộp cho trại. Trên những thửa ruộng mạ có loại rau sàng mọc dày, lá chỉ bằng vẩy cá, cọng dài như cọng cải non, hái về nấu canh hoặc ăn sống rất ngọt. Cơm có độn ít ngô, ăn với canh rau tập tàng nấu với thịt hộp. Thế là sang trọng lắm....

Gio An thăm thẳm

11/07/2023 lúc 08:57

 Cây đa ân nghĩa





T





ôi cùng Lê Bá Dương và các bạn hữu hẹn nhau lên Gio An. Ánh ngày sắp tắt rồi, những đường chân bước quen bỗng lạ lẫm, thân gần khi các vòm cây cao sụ cứ chực nhao ra, như muốn chạm tầng tầng xanh rì nà nuột, ôm lấy con đường nhựa thênh thênh trong chiều. Mảnh đất từng vang ngân tiếng trống trận năm xưa giờ yên hòa vời vợi màu xanh cây trái và nhuần nhị, thẳm sâu tình người.
Lê Bá Dương đã quá nổi tiếng với người Gio An. Đến một lão nông tráng kiện tình cờ tôi bắt gặp và trò chuyện cũng am tường nói cho tôi rõ rằng, Lê Bá Dương bây giờ có thể gọi kèm tên với rất nhiều chức danh, nhưng có lẽ lĩnh vuecj mà anh đạt đến  đẳng cấp cao vẫn là nhiếp ảnh, viết báo và… đánh giặc!
Gio An là nơi tân binh Lê Bá Dương, người lính tiểu đoàn 2, Trung đoàn 27 (Trung đoàn Xô viết Nghệ An, trung đoàn Nghệ An Đỏ lừng danh và sau này là Trung đoàn Triệu Hải anh hùng) đã cùng đồng đội nổ phát súng đầu tiên trên chiến trường khi đặt chân vào miền Nam...

Lắng nghe thành phố

11/07/2023 lúc 08:57






K





ý ức đầu tiên của tôi về Đông Hà bao giờ cũng là khu chợ ồn ào nằm bên  Sông Hiếu, tấp nập trên bến dưới thuyền. Có lẽ tại thời sinh viên, mỗi lần từ Hồ Xá vào Huế, trên chặng đường dài dằng dặc chỉ thấy xóm làng đìu hiu và miên man cát trắng thì chợ Đông Hà là nét chấm phá dường như duy nhất của sự phồn hoa, đô hội trên đất mẹ nghèo Quảng Trị. Khu chợ ngập tràn mái tôn bán toàn  rau má và các thứ hàng làm từ vật liệu chiến tranh sau năm 1972 trong lời kể của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lùi vào quá vãng song chợ Đông Hà vào đầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước vẫn quá ư nghèo nàn. Đứng từ cầu Đông Hà nhìn xuống, chỉ thấy nhô lên vài ngôi nhà hai tầng xây theo lối giật gấu vá vai bởi thời bao cấp vật liệu khan hiếm; còn lại là cơ man những lều, lán “dã chiến” làm bằng đủ thứ vật liệu bà rằn, lô nhô lổm nhổm như một trận đồ bát quái.
            Tôi vẫn nhớ mãi một buổi trưa đầy nắng, ngồi trên chuyến tàu Nam Bắc ghé qua Đông Hà: Đại lộ Hùng Vương chưa kịp tráng nhựa, đất đỏ choá nhưng nhức mắt. Em gái học trò tan trường, xiêu vẹo đạp xe trong gió Lào ràn rạt và bụi tung mù mịt. Cô bạn người Huế ngồi cạnh tôi lấy tay che mặt, thở dài ngao ngán: Không trách chi chị em khóc cạn nước mắt khi bị phân công nhiệm sở ở Đông Hà. Nắng non, bụi bặm dữ ri sống mần răng nổi anh hè?
            Tôi không trả lời câu hỏi của cô bạn gái vì ngay lúc đó thật khó có thể giải thích để cô hiểu, trên vùng đất nắng lửa, hoang sơ này, trong tương lai một thành phố phồn thịnh sẽ mọc lên. Nhưng từ câu ca dao tràn đầy lạc quan của quê hương Quảng Trị: Đừng than phận khó ai ơi, còn da lông mọc còn chồi nẩy cây,  tôi đã nuôi một niềm tin cháy bỏng: một ngày không xa, Đông Hà sẽ là thành phố trẻ, khang trang, soi bóng dòng Hiếu Giang hiền hoà.
Dự cảm được điều đó khi tôi miên man say với nhịp điệu hối hả dựng xây của đại công trường tỉnh lỵ.  Mỗi lần qua Đông Hà, lại xôn xao, tự hào bởi bao điều mới mẻ: Công viên Thanh niên nằm sát quốc lộ 1A mới xây xong, cầu nhỏ nghiêng nghiêng làm duyên với hồ nước trong xanh, Đại lộ Hùng Vương thênh thang, rãi nhựa phẳng lì, cột ăng ten Bưu điện vươn cao chót vót ngạo nghễ. Và phố mới Lê Duẩn, Trần Hưng Đạo san sát nhà hai, ba tầng, rộn ràng cửa hàng, cửa hiệu, sầm uất bán buôn, báo hiệu một tương lai phồn hoa.
            Năm 1995, Chợ Đông Hà được xây dựng hoàn thành. Thật may mắn nên tôi- một công chức huyện xa lại được cử vào Tỉnh họp đúng vào ngày khánh thành chợ mới. Ngồi trong quán nhỏ, tôi lắng nghe tiếng bàn tán xen lẫn xuýt xoa, náo nức của người Đông Hà khi nói về ngôi chợ mới kỳ vỹ và đồ sộ của mình. Có người còn quả quyết, đây là khu chợ đẹp nhất miền Trung, lớn hơn cả những ngôi chợ đàn anh đàn chị nổi danh, nức tiếng như Đông Ba, chợ Cồn Đà Nẵng…
Hoà vào dòng người, chen vai thích cánh trong Lễ Khánh thành chợ mới;  ngước nhìn toà nhà màu trắng, sừng sững như con tàu lớn đang chuẩn bị hú còi vươn ra đại dương mà lòng thấy nao nao. Cảm giác như một người suốt đời ở lều tranh, vách đất  giờ đang đứng trước bàn thờ, thắp nén nhang thơm báo cùng tiên tổ để dọn vào nhà mới to đẹp, đàng hoàng - thành quả của bao mồ hôi công sức, của một nắng hai sương, của lần lửa chắt chiu để có được cơ đồ sáng lạn…
 

Cảm nhận La Lay

11/07/2023 lúc 08:57






 T





ừ thị xã Đông Hà, chúng tôi ngược đường Chín lên La Lay vào một ngày đầu hạ. ở Đông Hà nắng rát mặt, khí hậu oi bức thật khó chịu, nhưng khi lên đến Đakrông tiết trời dịu  mát  lại pha chút sương mù thật dễ chịu. Đã nhiều lần lên xuống vùng miền Tây Quảng Trị, nhưng chuyến đi này lại có một ý nghĩa khác trong tôi, nó nằm trong chương trình trại viết về ngành Hải quan Quảng Trị, những người lính bảo vệ cửa ngõ kinh tế của đất nước trong thời kỳ hội nhập. Và với một tỉnh có 206 km đ­ường biên giới, tiếp giáp với nước bạn Lào qua hai cửa khẩu: Lao Bảo, La Lay; có quốc lộ Chín nằm trên tuyến hành lang kinh tế Đông Tây; có Khu kinh tế thương mạiđặc biệt Lao Bảo thì việc có mặt của những người lính Hải quan nơi phên dậu này lại là hết sức cần thiết.
Thêm một lần nữa được đắm mình vào núi rừng hùng vĩ của miền Tây, được đi trên đường Hồ Chí Minh trong những ngày tháng năm lịch sử. Cầu Đakrông, điểm rẽ từ đường Chín lên cửa khẩu La Lay, điểm hẹn của hai nhánh Trường Sơn Đông và  Đường Trường Sơn Tây  hùng vĩ. Con đường đã đánh thức vùng đồi núi hàng ngàn năm u tịch ở miền Tây Quảng Trị. Đ­ường Hồ Chí Minh vắt mình nh­ư giải lụa trên lư­ng Trường Sơn, đư­ờng đi qua những dòng thác bạc, có lúc lại chui vào những khu rừng rậm toàn những cây cao, rồi nó đột ngột lao thẳng vào vách đá như ­ một mũi tên xuyên  núi. Mây trắng bay lững lờ dọc triền núi như ­ một tấm voan mỏng quàng lên  màu xanh bạt ngàn của rừng núi trông thật thơ mộng. Nh­ư còn nghe vẳng đâu đây bài ca hùng tráng của những năm tháng hào hùng của dân tộc. Nắng chói vàng rực lưng chừng núi,  rừng đại ngàn xanh thẩm... nh­ững triền đồi cỏ lau trắng xoá, cảnh vật nguyên sơ hoang dã làm sao... trong lòng rưng rưng tình thương cây nhớ cội, hoài niệm ngàn năm trư­ớc tổ tiên mình đã bư­ớc chân đến chốn này
            Chênh vênh bên các sư­ờn núi là các bản làng của ngư­ời Pa Cô, Vân Kiều, những đồng bào dân tộc đã sống trên đỉnh Trư­ờng Sơn. Họ đã góp công góp sức không nhỏ cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Hàng chục, hàng trăm tấn gạo đã qua đôi vai, đôi chân của họ, phục vụ lâu dài cho mặt trận. Bây giờ nhờ có con đư­ờng này họ gần lại với miền xuôi, gần lại với ánh sáng văn minh hơn.

La Lay,  một bản nhỏ xinh xắn của người Vân Kiều ở nơi tận cùng của Tổ quốc. Những ngôi nhà sàn lợp tôn thấp thoáng ẩn hiện giữa những nương rẫy xanh tốt sắn, ngô. ở Cục Hải quan Quảng Trị tôi đã được nghe các anh nói rất nhiều về thế trận lòng dân, về sự  phối kết hợp giữa các lực lượng trong công tác phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và  tội phạm ở vùng biên này và sự  “xã hội hoá” trong công tác phòng chống buôn lậu  đã góp phần không nhỏ cho thắng lợi của công tác này trên toàn tuyến biên giới. Việc phối hợp chặt chẽ với các cấp uỷ, chính quyền địa phương làm tốt công tác tuyên truyền vận động kết hợp với công tác xoá đói giảm nghèo, đỡ đầu các xã đặc biệt khó khăn, xây dựng thôn bản kiểu mẫu cho đồng bào Vân Kiều, Pa Cô dọc theo vùng biên giới để họ cùng  tham gia phòng chống buôn lậu, không tiếp tay bao che cho các đối tượng buôn lậu đã phát huy được hiệu quả rõ rệt. Hỗ trợ, đỡ đầu cho các xã vùng  biên khó khăn là một trong những chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Hải quan Quảng Trị trong những năm qua cùng với việc thực hiện tốt công tác chuyên môn đã rất chú ý đến công tác từ thiện này. ở những nơi có các đơn vị hải quan cửa khẩu đóng trụ sở công tác này càng được chú trọng hơn. La Lay có 42 hộ dânchủ yếu là người dân tộc Pa Cô. Năm 2005, nằm trong chương trình thực hiện đỡ đầu các xã vùng biên đặc biệt khó khăn, Hải quan Quảng Trị đã hỗ trợ đầu tư xây dựng  La Lay thành bản kiểu mẫu. Hải quan Quảng Trị  xây dựng cho bản 27 ngôi nhà Đại đoàn kết. Đó là những ngôi nhà sàn lợp tôn, chi phí để xây dựng mỗi căn nhà chừng 30 triệu. Chi cục hải quan La Lay, đơn vị đóng trên địa bàn hỗ trợ xây dựng cho bản trường tiểu học 2 phòng xinh xắn. Hệ thống hạ tầng giao thông ở thôn đã được hải quan hỗ trợ nâng cấp xây dựng. Hầu như không có một cái tết nào của đồng bào dân tộc ở đây mà Chi cục hải quan La Lay không đến chung vui. Niềm vui của đồng bào nơi vùng biên này cũng là niềm vui của các anh. Các ngày1/6 Quốc tế thiếu nhi, ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.... thì trụ sở của Chi cục trở thành điểm sinh hoạt văn hoá của bản.
            Cảm nhận về tình cảm gắn bó giữa những người lính hải quan và người dân nơi đây càng được khẳng định thêm khi tôi gặp  ông Côn Thọ - Trưởng bản La Lay. “Trước đây bản miềng nghèo lắm! Chỉ có nhà tranh vách nứa, từ ngày có cán bộ hải quan đỡ đầu bản miềng mới có được cái nhà ở ấm cúng”. Côn Thọ đã nói rành mạch như thế khi tôi hỏi về tình hình đỡ đầu các xã khó của Hải quan Quảng Trị ở bản này. Côn Thọ còn cho tôi biết thêm về tình hình của bản: Ngư­ời dân ở đây không còn  thiếu đói lúc giáp hạt. Nhận thức của ngư­ời dân đã có nhiều thay đổi, các tập tục tập quán lạc hậu đư­ợc xoá bỏ, an ninh trật tự xóm làng giữ vững, dân không đi gùi cõng hàng cho bọn buôn lậu. Những lúc đi nương, đi rẫy phát hiện hoặc nghi những người có hiện tượng buôn lậu dân bản đều báo cho các anh. ở cửa khẩu La Lay này hàng hoá qua về chủ yếu là hàng nông - lâm sản, nhiều vụ buôn lậu trâu bò qua biên giới  đã được bà con phát hiện và báo cho chi cục. La Lay còn là bản cam kết hộ gia đình thực hiện qui chế kết nghĩa Bản - Bản  hai bên biên giới. Cam kết này nhắc nhở người dân làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ trong xây dựng bản làng giàu đẹp, giữ gìn tình hữu nghị keo sơn hai dân tộc Việt - Lào....
 

« 6465666768 »

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

26/04

25° - 27°

Mưa

27/04

24° - 26°

Mưa

28/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground