10/01/2025 lúc 09:50
30/09/2024 lúc 16:52
Đ
ọc anh Duật thấy nói nhiều đến lửa, chỗ nào cũng lửa, lửa trong từng câu, trong từng bài và ở ngoài bìa những tập thơ. Lửa đèn, Vầng trăng quầng lửa, Đường dài và những đốm lửa. Về sau này còn có Tiếng bom và tiếng chuông chùa viết vào những ngày hòa bình mà vẫn cứ bập bùng ánh lửa. Lửa với anh Duật là những kỷ niệm không phai nhạt, là một biểu tượng sống, một phẩm chất làm nên cốt cách của anh. Trong anh Duật có một ngọn lửa vẫy gọi và nâng bước. Nhiều trang ở tập văn xuôi Kim cương bất hoại còn đang dở dang và tập Vừa làm vừa nghĩ in năm trước anh đã dành nhiều đoạn mang trí tuệ cao để luận về lửa. Lửa nóng và lửa lạnh, vĩnh hằng biến ảo, sắc sắc không không, lửa trong đống nhấm bên đường của người đi gửi lại cho người đến, lửa chuyện trò cùng bạn bè và lũ con trẻ mai này. Dễ hiểu thôi vì Phạm Tiến Duật là người sống trong lửa, bước vào lửa và từ lửa lại bước ra.
Đầu tháng tám năm 1964 nổ ra sự kiện Vịnh Bắc bộ, tàu khu trục Madoc của Hải quân Mỹ xâm phạm hải phận ta, tảng sáng có đánh nhau, các vạn chài không ra khơi, được lệnh ẩn nấp. Trên vùng trời những tốp phản lực Mỹ vượt vĩ tuyến 17 oanh tạc dọc duyên hải từ Vĩnh Linh tới Hòn Gai. Pháo phòng không đồng loạt bắn trả. Đấy là sự khởi đầu cho một cuộc chiến tranh leo thang khốc liệt kéo dài suốt tám năm...
30/09/2024 lúc 16:52
Đ
i làm thuê đánh bắt hải sản nhiều nơi gọi là “đi bạn”. Đi bạn kéo lưới, chèo thuyền, chạy máy...xưa và nay không có gì thay đổi. Những năm gần đây cùng với công cụ và kỹ thuật nhập ngoại, đề ra thêm cái nghề đi bạn lặn bắt hải sản.
Trước đây ngư dân cũng lặn bắt hải sản nhưng chỉ thực hiện được ở vùng nước nông, ven bờ, hiệu quả rất thấp, chưa thể gọi riêng là một nghề. Ngày nay những người lặn bắt hải sản được trang bị nhiều loại công cụ khá hiện đại và đắt tiền. Bình dưỡng khí, áo lặn, kính đeo mắt, dèn pha dưới nước và những phương tiện liên lạc từ dưới đáy biển lên tàu... Tuỳ mức độ giàu có và sự đầu tư người đi bạn sẽ được trang bị ít hoặc nhiều loại phương tiện lặn bắt đắt tiền hoặc rẻ tiền. Sự chênh lệch đắt rẻ này cũng khá cao. Mỗi bộ áo lặn bình thường gần chục triệu đồng, loại tốt lên tới mười lăm hai mươi. Tất nhiên càng trang bị nhiều công cụ tốt hiệu quả lặn bắt càng cao. Một bình dưỡng khí loại xoàng chỉ giúp thợ lặn hoạt động dưới nước không quá ba mươi phút, sử dụng loại bình tốt, đắt tiền có thể lặn nhiều thời gian hơn...
30/09/2024 lúc 16:52
T
ôi vẫn tự thầm trách mình rằng là người Quảng Trị nhưng lại biết về nơi chốn này quá muộn. Nhưng đôi khi sự muộn màng làm con người ta phát hiện ra vẻ lắng sâu của những di tích mà có thể nếu biết sớm quá chưa hẳn đã tìm thấy được. Hoá ra Nghĩa Trũng đàn nằm cách căn nhà cũ của tôi ở thị xã Quảng Trị không xa lắm- chỉ có một quảng đồng, bên kia con kênh Nam Thạch Hãn, và tôi sửng sốt khi nghe nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng đấy là một trong những nghĩa trang liệt sĩ đầu tiên của nước ta. ..
VIỆC “NHÂN” DÙ NHỎ KHÔNG THỂ KHÔNG LÀM…
Lần giở những sử liệu mới hay tấc đất nào nơi Thành Cổ này đều quá đỗi thiêng liêng. Một sự ngẫu nhiên của lịch sử chăng ? Hay có sự sắp đặt nào mà mảnh đất Quảng Trị này luôn là nơi để những liệt sĩ chọn để nằm lại? Nghĩa trũng được lập từ 1872, đúng 100 năm sau, ngay trên vùng đất với ngôi làng có Nghĩa Trũng này một cuộc chiến đã diễn ra ròng rã 81 ngày đêm để rồi đi vào lịch sử như một trận chiến khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ: Thành cổ Quảng Trị - mùa hè đỏ lửa 1972..
30/09/2024 lúc 16:52
"Ở
vùng biển Gio Linh này chuyện phụ nữ đi biển không phải là chuyện hiếm. Nói đâu xa, chú cứ lên thôn Quy Hà (xã Gio Việt), bây giờ vẫn có rất nhiều chị em phụ nữ hàng ngày cùng chồng ra biển...nhưng họ cũng chỉ đánh bắt cá, mực cách bờ có vài hải lý. Riêng tôi, không phải tự hào với chú chứ mỗi chuyến ra khơi là phải đánh bắt ở ngư trường cách bờ đến 40 - 50 hải lý. Khi thuyền buông neo, chợt ngoái nhìn lại đến đảo Cồn Cỏ cũng không nhìn thấy mà xung quanh chỉ là một màu xanh của bao la đại dương" - Bà Lê Thị Thẻo (60 tuổi) ở khu phố 2 (thị trấn Cửa Việt, Gio Linh) đã cởi mở với tôi như vậy khi nói về nghề biển mà bà gắn bó gần 50 năm.
Đi biển ngày xưa...
Ngồi giữa đống lưới chất đầy xung quanh mình, bà Thẻo vẫn không phút ngơi tay vá lưới. Vừa làm, bà vừa kể cho tôi nghe chuyện bà đi biển hồi còn chiến tranh. Bởi như cách nói vui của bà thì tất cả mọi chuyện đều phải "có đầu, có đuôi". Bà kể: "Tôi bắt đầu đi biển từ khi mới 10 tuổi (khoảng năm 1963). Khi đó, ngư dân như gia đình tôi đi biển cơ cực trăm điều bởi bọn Mỹ - ngụy nó chèn ép đủ đường. Chú nói không cực sao được khi mà muốn đánh bắt nhiều cá thì phải nương theo con nước để thả lưới. Nhiều lần vì theo luồng cá, thuyền vào khu vực mà bọn Mỹ - ngụy cấm đánh bắt, vậy là chúng lên thuyền lục soát và bắt cả nhà phải xếp hàng để chúng khám người vì nghi thuyền của gia đình tôi đi tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ. Lúc ấy, còn nhỏ nên tôi sợ quá, cứ nép vào cha tôi mà khóc thút thít. Hồi đó, thuyền chèo bằng tay hoặc căng tấm buồm nâu vá víu nương theo hướng gió nên chỉ đánh bắt gần bờ với nghề lưới gấc, câu mực...Rồi quê hương hoàn toàn giải phóng, gia đình tôi vẫn tiếp tục nghề đi biển cho đến năm 1974 thì tôi lấy chồng. Cứ tưởng lấy chồng sẽ hết theo nghề biển, nhưng rồi gia đình chồng neo người, vậy là tôi lại lên thuyền cùng chồng ra khơi."
Năm 1975, khi Hợp tác xã (HTX) Long Hà (lúc đó còn thuộc xã Gio Việt) được thành lập, bà cùng chồng tham gia HTX. Ở quy mô HTX nên công suất của đội thuyền cũng lớn hơn con thuyền của gia đình bà trước đó nhưng không có nghĩa là những phụ nữ theo nghề biển hết vất vả. Theo dòng ký ức của bà Thẻo thì những năm đi làm công (tính công điểm) trên thuyền của HTX Long Hà vất vả nhất là những hôm gặp mưa giông. Thuyền không có ca bin nên mấy chị em (lúc đó ở HTX Long Hà có 3 - 4 phụ nữ tham gia) ôm nhau lạnh run cập cập ở đầu mũi thuyền, còn phía cuối thuyền là cánh nam giới. Rồi những hôm thuyền HTX gặp giông tố, thuyền cứ chao đảo và nước biển tràn vào khoang, lúc ấy mấy chị em cũng phải cùng cánh nam giới mặc áo mưa xuống khoang thuyền tát nước suốt đêm. Thuyền vào đến bờ, mới biết mình còn sống nhưng hai cánh tay tát nước mỏi đến tê cứng từng sợi cơ. Hồi đó, nghề đánh bắt thủy sản mà các HTX thường làm là nghề đánh lưới rê.
Vất vả như vậy, nhưng công điểm HTX tính cho không đủ tiền đong gạo. Con cái thì cứ lần lượt từng đứa ra đời, nên gia đình tôi cứ mãi trong vòng vây thiếu đói. Mãi đến năm 1989, thì gia đình tôi ra khỏi HTX rồi vay mượn bà con, họ hàng khoản tiền để đầu tư mua sắm thuyền, ngư lưới cụ. Có thuyền, cả gia đình gồm hai vợ chồng cùng hai đứa con hợp thành một đội thuyền đạp sóng ra khơi. Nghề đánh bắt lúc đó là câu mực bằng đèn măng xông, vó mực, câu vàng... Có thuyền riêng nên thu nhập của gia đình cũng khá giả hơn so với hồi còn làm công điểm trong HTX bởi sản lượng cá, mực... đánh bắt được có chia phần cho ai đâu. Sau này, khi hai vợ chồng tích cóp được một khoản tiền thì bắt đầu đầu tư mua sắm thuyền lớn, ngư lưới cụ hiện đại hơn để đánh bắt ở các ngư trường cách xa đất liền hàng chục hải lý" - Bà Thẻo nhớ lại.
Khi tôi hỏi bà công việc của một phụ nữ khi làm ngư dân đánh bắt trên biển. Bà cho biết: "Phụ nữ đi biển thì cũng có khác gì nam giới. Cứ chiều đến là tôi cùng với chồng con lên thuyền ra biển. Đến nơi đánh bắt, tôi có nhiệm vụ nấu cơm tối, còn chồng và các con thì tranh thủ câu mực, câu cá. Đêm xuống, đèn măng xông được thắp sáng cũng là lúc cả gia đình cùng buông cần câu mực... Nhiều đêm, câu không có mực nên chồng con ngủ hết, tôi ngồi câu một mình. Câu mực luôn phụ thuộc vào từng thời khắc lưu chuyển của dòng hải lưu trong đêm cũng như khi mực bám ánh sáng đèn, ăn mồi nên phải chịu khó ngồi câu suốt đêm thì mới chớp được thời khắc đó. Khi mực bắt đầu bám ánh sáng đèn, ăn mồi, tôi mới thức chồng, con dậy câu. Còn câu vàng thì phải đợi đến 4 giờ sáng mới thả câu. Để chú tiện hình dung ra công việc thả câu vàng, tôi miêu tả chi tiết một chút cho chú hiểu. Câu vàng là một đoạn dây to bằng đầu đũa, có chiều dài khoảng 3 - 4 hải lý và ở các đầu đoạn dây được gắn phao đánh dấu. Trên đoạn dây đó, cứ khoảng cách 2 m thì buộc một sợi dây câu nhỏ hơn có gắn lưỡi câu. Công việc trước khi thả câu là phải dùng số mực, cá câu được trong đêm đem cắt nhỏ để móc vào lưỡi câu. Thả câu vàng phải cần đến sự tỉ mỉ trong từng công đoạn nếu không dây câu sẽ bị rối là không thả câu được. Từ 3 - 4 giờ sáng bắt đầu thả câu thì phải đến 6 giờ sáng mới xong. Thả câu xong, cả thuyền ngồi chờ khoảng vài tiếng đồng hồ mới tiếp tục làm công việc kéo câu lên. Thả câu vàng thường bắt các loại cá như cá đổng, cá mú... Nhiều lần kéo câu trúng vài tạ cá đổng, cá mú là chuyện bình thường. Khoảng vài năm trở lại đây, nhiều tàu, thuyền ở vùng biển Gio Linh không còn làm câu vàng nữa mà tập trung đầu tư mua sắm các loại hình ngành nghề đánh bắt thủy sản hiện đại hơn như lưới rê bùng nhùng, pha xúc, vây rút chì...bởi sản lượng đánh bắt nhiều hơn nghề câu vàng. Nhớ lại, những năm đó mực, cá nhiều lắm chứ không như bây giờ."
"Kình ngư" cuối cùng
Tôi hỏi bà Thẻo "bí quyết" để trở thành một "kình ngư" thạo nghề trên biển, bà cười rồi bảo rằng: "Có gì mà "bí quyết" chú. Muốn đi biển được thì điều đầu tiên là phải đối diện với say sóng đến nôn ra mật xanh, mật vàng với cảm giác lâng lâng, nao nao khó tả lắm... Người nào có thể trạng tốt thì thời gian bị say sóng ngắn, tức là khoảng 2 - 3 ngày đi biển là hết say, còn người nào yếu thì say sóng cả tuần. Vượt qua được giai đoạn say sóng rồi thì ở giữa biển cũng giống ở đất liền thôi. Một yếu tố cần thiết để trở thành ngư dân nữa đó là phải biết bơi lội giỏi, bởi không biết bơi nếu thuyền gặp giông tố hoặc sơ sẩy bị rơi xuống biển thì chỉ có cầm chắc cái chết. Còn để trở thành một ngư dân lão luyện trong nghề biển thì phải biết học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước như học cách đoán được hướng lưu chuyển của dòng hải lưu, hướng gió, thủy triều lên xuống, phán đoán được hướng đi của đàn cá, xác định được thời điểm nào buông câu thì cá, mực ăn và khi nào thì không...Nói chung là có nhiều thứ để học và thậm chí học cả đời cũng không hết đâu chú".
Ngừng công việc vá lưới để đưa tôi ra thăm chiếc tàu xa bờ có công suất hơn 90 CV của đứa con trai bà mới mua trong năm 2010. Bà nói: "Tôi nghỉ nghề biển khoảng 3 năm nay, bởi các con khuyên nên ở nhà chăm sóc các cháu và tôi cũng tự thấy mình tuổi già sức yếu ra biển không giúp gì được cho con mà nhiều khi còn vướng tay, vướng chân mấy đứa. Chú xem, tàu mấy đứa là tàu đánh bắt xa bờ loại lớn nên mỗi lần đi đánh bắt phải từ 15 - 17 ngày mới về bến. Ngư lưới cụ trên tàu toàn là loại nặng cần đến sức trai tráng mới làm nổi chứ như sức lực của tôi cầm đến cục chì của vàng lưới cũng cầm không nổi rồi. Không đi biển nữa thì ở nhà chăm mấy đứa cháu rồi vá lưới giúp các con."
"Bây giờ không chỉ ở khu phố 2 mà cả thị trấn Cửa Việt không có phụ nữ đi biển nữa. Có lẽ tôi là người phụ nữ cuối cùng ra biển ở thị trấn này. Từ ngày không còn ra biển, nhiều khi tôi nhớ quay quắt từng con sóng, nhớ ánh đèn giăng mắc giữa trùng khơi cứ như thành phố nổi trên biển. Nhớ quá, nên hai vợ chống bàn nhau sắm chiếc thuyền nhỏ đêm đêm ra sông Hiếu thả lưới, câu cá mòi....Không đánh cá trên biển thì đánh cá trên sông chú nhỉ!" - bà Thẻo tâm sự với tôi trong sự tiếc nuối về quãng đời gắn bó với biển khơi. Tôi biết trong tận đáy sâu tâm hồn bà từng giờ, từng phút vẫn hướng về biển cả, nơi các con của bà cũng như những ngư dân vùng biển đang hàng ngày đánh bắt từng luồng cá để làm giàu cho gia đình và quê hương.
H.T.S
30/09/2024 lúc 16:52
1. Những ngày ra với quần đảo Trường Sa, dù chon von trên đảo Đá Lớn, đảo Tốc Tan, “đảo nhỏ quá, nói một câu là hết” hay thả bộ dọc những triền cát miên man của đảo Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa Lớn...tôi đã bắt gặp những người lính Hải quân đa cảm mà rắn rỏi, kiên nghị mà thân gần như người trong một nhà. Họ, nói như nhà văn Đỗ Chu, là lớp người nghĩ ngợi lớn, lo âu lớn, yêu thương lớn, sức gánh vác lớn. Quần đảo Trường Sa của chúng ta có khoảng 130 đảo, đá, bãi cạn, bãi ngầm với diện tích vùng biển rộng 160.000-180.000 km2. Hiện trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam là quốc gia có số đảo có quân và dân sinh sống, xây dựng hạ tầng kinh tế- xã hội nhiều nhất (21 đảo, đá với 33 điểm đóng giữ). Trong lực lượng hùng hậu của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng, cùng với con em khắp mọi miền đất nước, những chàng trai “đất thép” Vĩnh Linh đã phát huy truyền thống trung dũng, kiên cường của quê hương, ngày đêm vững vàng tay súng, bảo vệ vững chắc, toàn vẹn chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc ở quần đảo Trường Sa...
30/09/2024 lúc 16:52
H
ồ Nhân khuôn mặt đen sạm, ốm nhom hí hửng chạy vào nhà, cầm tờ giấy khen được bố đóng khung cẩn thận đem khoe: “Cháu đã là học sinh tiên tiến, được nhận giấy khen và phần thưởng của trường”. Nhân nói như hét, như muốn cả bản biết về “chiến công” mình vừa lập được. Ông Hồ Doi, nhà ở ngay bên cạnh cũng “ném” sang một câu hớn hở đùa cợt, nhưng chẳng liên quan gì đến tờ giấy khen mà Nhân cầm trên tay: “Bố cũng thoát nghèo, cứ đà ni e vài năm nữa không thoát khỏi... giàu mô mấy eng hi”.
Bản Ma Lai, xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị thuộc diện nghèo có tiếng cách đây mấy năm ở năm xã miền núi thuộc khu vực biên giới Bắc Hướng Hóa. Nhưng bây giờ, nhìn cách cháu Hồ Nhân - học sinh lớp 7 kể vừa thoát học lực yếu tiến lên khá, ông Hồ Doi thoát nghèo và đang dần dà tiến lên... giàu. Đủ nói, vùng đất trước đây “nặng trĩu” nghèo đói này đã và đang thay áo...
30/09/2024 lúc 16:52
N
ăm 1956, mẹ tôi-một phụ nữ miền Nam không chịu nổi sự kìm kẹp, áp bức của Nguỵ quyền, được tiếp sức bởi lòng nhớ thương người chồng mới cưới đang ở miền Bắc đã vượt qua đường dài, sông rộng và muôn sự hiểm nguy để vượt tuyến ra Bắc. Hồ Xá- Vĩnh Linh và người dân luỹ thép đã giang rộng vòng tay chở che, cưu mang mẹ cùng nhiều người con miền Nam ruột thịt khác để rồi mảnh đất đầu cầu giới tuyến đã trở thành quê hương yên bình, là nơi đau đáu nhớ về mỗi lúc đi xa.
Mẹ kể: Hồ Xá trước kia là làng Hồ Xá, làng do một nhóm dân thuộc triều Hồ di cư vào lập nghiệp. Về mặt địa lý, Hồ Xá nằm rất gần với địa danh Truông Nhà Hồ, địa danh đi vào giai thoại: "Thương em anh chẳng dám vô. Sợ Truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang..." Ngày đầu đến Hồ Xá, thị trấn còn nghèo và đơn sơ lắm. Trung tâm thị trấn là dãy nhà tranh nằm kề nhau cạnh Quốc lộ 1A. Chợ Hồ Xá chỉ có một dãy nhà gạch, trước đây là nơi kinh doanh của một gia đình Hoa Kiều. Tuy nghèo nhưng cuộc sống rất lạc quan và tràn đầy niềm vui...
30/09/2024 lúc 16:52
H
ọc hết năm lớp nhất bậc tiểu học, tôi thi đổ vào trường Trung häc Gio Linh. Năm ấy toàn huyện tôi (thực ra hai quận Gio Linh và Trung Lương) chỉ có một ngôi trường Trung học.
Nhiều học sinh ở các xã như Trung Giang, Trung Hải, Trung Sơn, Gio Hà, Gio Hải, Gio Mỹ đều cách xa trường hơn mười cây số. Vì thế, nhiều học sinh đi học phải đi bằng xe đạp. Thời bấy giờ có xe đạp là sang trọng lắm. Học sinh nhà nghèo phải cuốc bộ tíi trường, phải đi từ gà gáy sáng mới kịp buổi học. Đi học, ngoài chiếc cặp da đựng sách vở, còn phải đèo thêm một mo cơm. Cơm đựng trong chiếc mo cau độn khoai, sắn. Thức ăn là gói muối gừng hoặc muối sã ớt. Tan học, nhiều học sinh tìm ra vệ cỏ có bóng râm, ngồi xếp bằng an nhiên ngồi ăn ngon lành. Còn cậu nào con nhà có khá hơn thì ra quán chợ ăn quà thay bữa. Quà là bánh bột lọc, bánh tày, bánh rán, cháo vịt, cháo lòng,... thích thứ gì thì dùng thứ đó. Dấu ấn sâu đằm nhất vẫn là bánh bột lọc bọc nhân tôm mà quê tôi thường gọi là bánh sắn. Bánh sắn bà Thẻo nổi tiếng. Bánh được làm bằng tinh bột sắn bên trong nhân tôm thịt heo rim, tinh bột trong suốt nhìn rõ mình con tôm khoanh tròn đỏ thắm. Bánh được bày ra đĩa rưới lên một lớp mỡ lợn phi với lá ném, trộn ớt bột đỏ hồng. Bánh bột lọc kẹp với bánh tráng nướng dòn ăn rôm rốp, thật khoái miệng. Hôm mới rồi tôi gặp lại anh Đổng, anh LÔ... những cựu học sinh Gio Linh từ thành phố Hồ Chí Minh về thăm quê đã hỏi tôi, Bà Thẻo nay còn không? Tôi hỏi lại: “Bà Thẻo nào?” Các anh liền đáp: Bà Thẻo bánh sắn chị Cậu chứ Bà Thẻo nào. Hoá ra các anh ấy còn nhớ kỷ niệm hơn tôi.
Tôi ngộ ra rằng, trời ơi! Món ăn dân dã quê nghèo của tôi lại có dư vị lâu bền đến thế ư! Mà có phải chỉ bánh bột lọc đâu. Tôi có cảm giác món ăn gì của tuổi thơ quê kiểng đều ngon hết thảy. Không biết vì sao bây giê biết bao nhiêu sơn hào hải vị với những tên gọi mỹ miều lạ lẫm nhưng ăn chẳng thấy ngon, tôi không giải thích được.
Trường tôi, một dãy nhà trệt chỉ có bốn phòng học. Trường lợp ngói hồng, tường quét vôi màu vàng, cửa sổ sơn xanh, trông uy nghiêm đường bệ. Lớp học sinh chúng tôi cảm thấy tự hào khi được đặt chân lên bậc thềm tráng bằng xi măng láng bóng. Tiếng gót dày "côm cốp" của Thầy giáo mỗi lần đi qua sao nghe oai vệ lÉy lừng trong niềm cảm khoái bất tận. Sân trường rộng tho¸ng nhưng thiếu vắng những hàng cây. Cỏ ống, cỏ lia thia mọc thành thảm dày, trổ hoa lấm tấm mang hồn vía học trò ngây thơ mà hoang hút. Đáng ghét là những bãi cỏ may xác xơ dưới gót chân. Tội cho các nữ sinh mỗi khi quét tà áo vào, bông cỏ găm chi chít, phải ngồi nhổ hàng giờ mới sạch. Phía sau lưng trường là những hàng phi lao cao vút vi vu rì rào hun hút gió. Đây là nơi chơi đùa của học sinh chúng tôi vào giờ nghỉ học.
Đường tới trường, dẫu đi từ phía nào đến cũng đều có dấu ấn vui buồn đời thơ trẻ, dẫu chỉ là một bóng cây, một tảng đá, một lạch nước hay một bờ cỏ nghỉ chân.
Từ phía làng Hà Thượng đi xuống, băng qua cầu Bến Sanh đến chợ Quận. Con đường đất đỏ Biên Hoà mùa khô thì tung bụi mịt mù nhuộm đỏ hàng dứa dại mọc bên bờ, mùa mưa lại nhảo nhoét vì những bánh lốp ô tô đè lăn qua, lç chç những hố gà, hố vịt. Học sinh chúng tôi đi học phần lớn mang dép Nhật chỉ có hai quai trước nên ống quần lúc nào cũng bị bùn đất bắn lên, đỏ loét. Khu phố nhỏ bao bọc xung quanh quán chợ. Những cửa hiệu của mấy gia đình thương nhân giàu có nhất vùng, bán nhiÒu hàng hoá đối với chúng tôi là những thứ sang trọng, mình không dám hỏi tới. Quán chợ có đình lợp bằng mái tôn, để trống, không có tường và cao vòi vọi. Những dãy quán làm bằng tre nứa, lợp mái tranh, bán hàng tạp hoá, hàng gia vị, áo quần may sẵn và đồ chơi trẻ con. Tôi mê nhất là hiệu bán đàn và những quả bóng tròn bằng nhựa, mà mỗi lần đi qua chỉ biết đứng nhìn. Hàng bày trời là bán nông sản. Những gánh chuối, chè xanh, bầu bí bày la liệt.
Nếu đi từ phía làng NhÜ Thîng lên là qua cầu Bến Ngự. Nghe nói nơi đây ngày xưa các vua triều Nguyễn thường ra ngự lãm. Cạnh cầu là làng Lại An, làng có nhiều cô gái răng trắng má hồng nổi tiếng xinh đẹp. Chiếc cầu nhỏ trùm bóng những hàng dừa. Đứng nghỉ chân vào mùa hè, chúng ta có cảm giác mát lành gợi nçi nhớ xa vời hun hút hương vị tuổi thơ. Dọc hai bên đường là những hàng dương liÔu, học sinh thường chọn nơi cắm trại những ngày hè. Đất ở đây là cát pha nên rất thích hợp với loài cây dương liÔu. Dương liÔu mọc thẳng tắp vươn ngọn tới tận mây xanh, ở những gốc cây này là những điểm hẹn lý tưởng của tình nhân. Chiếc nón trắng, tà áo dài đứng tựa lưng vào gốc liÔu là hình ảnh đẹp nhất tuổi học trò.
Đi từ làng Mai Xá hoặc An Mỹ lên phải băng qua trảng cát rộng dài mông lung với những lạch nước trong như lọc, lăn tăn gợn sóng. Cây Tràm ở đây mọc thành từng khoảnh, cây lµ chất đốt cho vùng cát và nguyên liệu cho thứ tinh dầu dùng bôi rốn cho trẻ con khỏi bị cảm gió. Những trảng cát bằng phẳng rộng mông mênh, là sân bóng đá của học sinh chúng tôi. Miền đất này có chç tựa như cảnh cụ Nguyễn Du tả trong trường đoạn Kiều đi hội đạp thanh bởi nhiều mồ mả và gò đống.
Học sinh của Trường hàng ngày phải mặc áo trắng quần xanh nếu là con trai cßn con gái mặc áo dài trắng tinh tươm, quý phái. Ngực áo đều được đeo biển hiệu thêu tên họ và lớp học. Kiến thức nhà trường truyền thụ đối với chúng tôi môn nào cũng mới mẽ, thú vị và đầy hào hứng. Để cho dÔ nhớ bài học, nhất là các môn tự nhiên, học sinh chúng tôi đều soạn các công thức bằng văn xuôi. Tôi còn nhớ môn toán lượng giác có câu...
30/09/2024 lúc 16:52
T
rần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ mét tr¨m s¸u m¬i chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời. Các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này, song Chính ủy Tỉnh đội Quảng Trị trả lời bằng văn bản: Chúng tôi chưa thể giúp đỡ được. Nhận thư, các anh ngồi lặng người, nghe buốt trong tim.
Đợi đủ thời gian ba năm, năm 2007, các anh làm đơn lần thứ hai, Trần Văn Thà với tư cách đảo trưởng thời đạn bom ra tận Đông Hà gặp gỡ, thuyết phục, mới được Tỉnh đội chấp nhận.
Mừng vui, thư tới tấp gởi đi, như những cánh bướm phất phới bay về khắp cả Bắc - Trung - Nam. Trong hai ngày chÝn, mêi tháng 6 năm 2007, các cựu chiến binh Cồn Cỏ tấp nập đổ xe xuống Đông Hà.
Cuộc gặp gỡ vui mừng khôn xiết, thật không có ngôn ngữ nào tả nçi. Họ hét gọi tên nhau, chạy ào tới, ôm chầm lấy nhau, ghì chặt, nâng bổng nhau lên vai. Cầm tay nhau chạy tung tăng. Thật không thể nghĩ trên nhà khách Tỉnh đội này là các ông già tóc bạc phơ, toàn cỡ b¶y m¬i tuổi trở lên, mà đúng hơn là sân nhà trẻ ngày Tết Trung thu của các cháu nhận quà. Họ hầu như quên tuổi tác của mình; đang sống hết lòng mình với tuổi trẻ một thời chia nhau miếng nước, chia nhau lửa đạn. Bùi Thanh Phong hồn nhiên tới mức anh ôm cổ, nhảy lên lưng hết người này đến người khác, vật bạn xuống giường, đè lên, day day hàm râu vào má bạn, tôi nhìn anh, cứ nhớ Bùi Thanh Phong bèn m¬i năm trước đây là một trong những người đầu tiên bắn đạn vào máy bay phản lực gầm rú trên bầu trời Cồn Cỏ.
Vui quá trời. Ba đêm trong nhà khách Tỉnh đội hầu như không ngủ. Trưa không ngủ. Họ nói chuyện với nhau không phải thầm thì đâu, mà oang oang như chợ vỡ vậy. Đúng là phải dốc hết lòng mình ra mới đã, 40 năm mới gặp được nhau chứ dễ dàng gì.
Ông Sửu, đảo phó năm ấy, giờ đã t¸m m¬i t tuổi nói nghẹn ngào:
- E đây là lần cuối cùng chúng ta đoàn tụ với nhau đông đúc như thế này.
Không phải chỉ ông Sửu nghĩ như vậy đâu. Đó là ý kiến đa số. Bởi người lính rời quân ngũ về với ruộng đồng, biết bao nhiêu điều chất lên vai họ, không dễ gỡ mình ra lúc nào cũng được. Mỗi chuyến xa nhà là một bài tính riêng, dẫu kỷ niệm cũ không bao giờ quên. Những bộ quần áo lính ngày ấy mang về, giặt giũ, cất kín như của gia bảo, bây giờ mới có dịp mang ra mặc. Hầu như không có ai không có chiếc mũ mềm gắn quân hiệu đã đi với họ suốt đời lính. Đội trên đầu lúc này đây như một niềm kiêu hãnh không bao giờ phai.
Đoàn cựu chiến binh Cồn Cỏ của Thanh Hóa có hai m¬i l¨m người, khoe: Trước khi đoàn đi, Tỉnh ủy và Ủy ban tỉnh Thanh Hóa gặp gỡ chúc chuyến đi thành công, không chỉ cho xe chở đi, mà còn cử riêng một phóng viên truyền hình mang theo máy đặc chủng, ghi hết mọi hoạt động của anh em trong cuộc gặp gỡ này, rồi in riêng cho mỗi người một đĩa làm kỷ niệm.
Buổi hẹn gặp gỡ với tỉnh, dự định 7 giờ 30 phút vào hội trường, nhưng sáng đó chiến sĩ Cồn Cỏ của Vĩnh Linh, Quảng Trị mới tới, không có chỗ đón tiếp, nên đành đến muộn, họ ào vào nhau, không dứt ra được, mãi 9 giờ 15 phút mới ngồi ngay ngắn trong hội trường.
Cuộc tiếp xúc này anh Trần Văn Thà, nguyên đảo trưởng Cồn Cỏ có bèn đề nghị:
Một là: Nên có một bảo tàng cho đảo Cồn Cỏ. Vì lý do gì đó không làm ở đảo được thì thu xếp một phòng riêng cho Cồn Cỏ ở Bảo tàng Quảng Trị.
Hai là: Cồn Cỏ cần có một tượng đài làm biểu tượng cho mình, và nên giữ nguyên những địa danh ở đảo như đã đặt ra trong chiến tranh.
Ba là: §ề nghị nên có kỷ niệm chương cho các chiến sĩ Cồn Cỏ nhân kỷ niệm n¨m m¬i năm thành lập. Ai không còn nữa thì gửi về gia đình họ.
Bốn là: Hiện còn có một số chiến sĩ bị thương trên Cồn Cỏ, vì lý do này, lý do khác chưa làm được chính sách thương tật, đề nghị Tỉnh đội giúp đỡ. Vì chúng tôi còn sống đây, sẽ xác nhận được cho nhau.
Sáng ngày mêi mét th¸ng s¸u, chỉ có b¶y m¬i cựu chiến binh ở xa được lên tàu ở Cửa Việt ra đảo. Họ tranh nhau ngồi trên ván gỗ mũi tàu, không phải để hóng gió mát, mà để nhìn thấy đảo Cồn Cỏ từ xa. Nhác thấy bóng đảo mờ mờ nơi chân trời, ai đó nói như reo lên:
- A, đảo kia rồi!
Thế là cả con tàu xôn xao. Nhao nhao nói: Mỏm cao bên tay trái đó là Hải Phòng, mỏm cao bên phải là Mũi Si… Đâu đâu, bến Nghè đâu, bến Nghé đâu?... Mỗi người đều tìm trong ký ức mình những kỷ niệm riêng nơi Cồn Cỏ. Rõ ràng Cồn Cỏ đang sống dậy trong từng người. Khi bước lên tàu, mọi người đều ngỡ ngàng vì màu xanh ngan ngát của Cồn Cỏ. Bởi ngày ấy chia tay Cồn Cỏ, thì Cồn Cỏ hố bom chồng lên hố bom. Mảnh đất hơn ba cây số vuông đang bị bom đạn địch cày nát, có đâu màu xanh như bây giờ...
30/09/2024 lúc 16:52
T
ôi là một trong số những người may mắn còn có diễm phúc được nhìn thấy thị xã Quảng Trị vẹn nguyên sau ngày giải phóng 1-5-1972. Mùa hè ấy sắc hoa phượng vĩ trên thị xã như rực rỡ hơn. Đường phố ngày mới giải phóng tuy thưa người nhưng không vì thế mà bớt đi vẻ nhộn nhịp, hồ hởi. Hào khí chiến thắng, không khí đoàn viên, ngập tràn thị xã. Lúc ấy, với tầm nhìn một người lính binh nhì của đạo quân chiến thắng, tôi chưa đủ chín để nhận thức ra rằng: Ánh hoa rực rỡ phát tiết ra ngoài của thị xã Quảng Trị vào thời khắc ấy mấy ngày sau chỉ còn là kỷ niệm trong ký ức của những người yêu Quảng Trị mà thôi.
Bây giờ Đông Hà đã thay Quảng Trị đảm nhiệm vai trò thị xã tỉnh lỵ và đang tiến nhanh lên thành phố trực thuộc tỉnh. Tôi có một nhận xét nhỏ: Nếu như Đông Hà mang dáng dấp của một đô thị trẻ, tân kỳ thì thị xã Quảng Trị vẫn giữ nguyên vẻ trầm lắng suy tư duyên dáng bên dòng Thạch Hãn với nét văn hóa đặc trưng đầy chất thị dân riêng có của mình: “ Người Quảng Trị hiền từ mà thanh lịch, quảng giao mà sâu lắng, nhạy bén nhưng không xu thời”
Cách kinh đô Huế sáu mười cây số về phía Bắc, mấy trăm năm làm phên dậu cho xứ Đàng Trong nhưng người Quảng Trị không muốn nhuốm màu vương giả kinh kỳ. Người dân thị xã sống đôn hậu dịu dàng, hồn nhiên tươi mát như đôi bờ sông Thạch Hãn quanh năm ngút ngát một màu xanh diệu vợi của lúa ngô rau đậu nối nhau chuyển mùa.
Nhưng với tôi, nhắc đến thị xã Quảng Trị, ấn tượng nhất vẫn là tiếng chuông từ nhà thờ Trí Bưu trầm ấm ngân nga, cứ mỗi sớm mỗi chiều đồng vọng gửi vào thinh không thông điệp thanh bình vĩnh cữu. Ngoài phần máu thịt thiêng liêng, tôi yêu thị xã Quảng Trị một phần bắt đầu từ tiếng chuông nhà thờ thanh tịnh ấy.
Làng Trí Bưu có tên trong địa bạ Quảng Trị từ thế kỷ XVI; là một làng thuần nông, mọi người cần cù chịu khó, thương yêu đùm bọc nhau và mưu sinh bằng những nghề hết sức lương thiện: trồng trọt, chăn nuôi, hái củi, bán than… Cần kiệm, đoàn kết nên làng Trí Bưu sớm trở thành giàu có, sầm uất nhất vùng. Và Trí Bưu cũng là nơi có họ đạo sớm nhất trong hạt Dinh Cát, thời các Chúa Tiên..
Cuối năm 1975, tôi đến xứ đạo Trí Bưu trong sứ mạng của một người lính thời bình. Trung úy Trần Văn Nụ - Chính trị viên phó tiểu đoàn, bảo tôi:
- Chú đi với anh ra nhà thờ Trí Bưu liên hệ xin đất cho đơn vị tăng gia, cấy lúa.
Ông Nụ gốc gác là dân quê lúa Thái Bình, đi bộ đội khi mười tám tuổi. Vào Nam chiến đấu từ chiến sĩ cho đến khi lên đến chức chính trị viên phó tiểu đoàn, trận nào ông cũng đảm nhiệm chân xạ thủ chính súng chống tăng B41 vì ông Nụ có biệt tài sử dụng loại súng này. Trong mỗi trận tập kích, lính ta biết phía ngoài cửa mở có ông Nụ ôm B41 yểm trợ ai cũng yên tâm. Bởi vì nhiều trận đánh công đồn hỏa điểm địch xuất hiện thì cũng chỉ mấy giây sau B41 của ông Nụ bịt được ngay. Ông phát hiện ụ súng, lô cốt của địch ban đêm rất nhanh và tác xạ bách phát, bách trúng. Cái lô cốt mẹ trước cổng chi khu quân sự quận lỵ. Mai Lĩnh đối diện UBND xã Hải Phú bây giờ mang nhiều vết đạn toang toác trong đó có vết đạn B41 của ông Nụ. Bộ sưu tập thành tích chiến đấu của ông có tới tám cái Huân chương chiến công, trông đó theo ông khẳng định có tới sáu Huân chương chiến công hạng ba vì thành tích tiêu diệt nhiều mục tiêu của địch bằng súng B41, yểm trợ cho xung lực hoàn thành nhiệm vụ trong những trường hợp gay cấn nhất.
Trong chiến tranh xứ đạo Trí Bưu bị tàn phá không thua gì ngoài Cổ Thành Quảng Trị. Cả xứ đạo không còn bóng cây to. Tre pheo bị bom pháo phát hiện tiện sát gốc, xơ xác toe tua. Cả thôn không một ngôi nhà nguyên vẹn, nhà thờ cũng bị hư hại nặng nề. Dân li tán sau chiến tranh mới trở về làng cũ, cuộc sống dưới những mái tôn rách che tạm bợ khó khăn trăm bề...
30/09/2024 lúc 16:52
S
o với 162 làng của huyện Vĩnh Linh được lập ra, sớm nhất từ thế kỷ XI, gần nhất cũng vài chục năm nay thì ngôi làng ấy quả là rất mới, mới ngay từ tên gọi, làng Tân Thủy. 'Tân' chữ Hán nghĩa là mới, 'Thủy' là gọi tắt tên xã Vĩnh Thủy. Ghép hai chữ ấy hiểu nôm na là làng mới của xã Vĩnh Thủy, một xã bán sơn địa thuộc huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị nổi tiếng trong kháng chiến chống Pháp với chiến khu Thủy Ba và chiến thắng một ngày bắn rơi tại chỗ sáu máy bay, bắt sống năm phi công trong kháng chiến chống Mỹ.
Vào một ngày đẹp trời tháng 4 năm l 993 nơi bốn mươI bảy năm trước là chiến khu Thuỷ Ba đã diễn ra một sự kiện lịch sử, ấy là hàng chục hộ nông dân của nhiều xã đồng bằng huyện Vĩnh Linh thực hiện chủ trương di dãn dân của Đảng náo nức lên đây lập nghiệp. Nhiều hộ cùng lập nghiệp trên vùng đất nào đó thì phải lập làng. Làng phải có tên gọi. Nhưng có điều không bình thường là cái tên 'Tân Thủy' hay ho là vậy mà dân bản địa ít dùng, họ gọi là làng Mới cho gọn. Rồi cũng từ cách gọi ngắn gọn ấy mà đầu óc tưởng tượng của dân gian có lúc gọi chệch đi một cách vui đùa làng Mạt. Họ nói dân làng Mạt, học sinh - làng Mạt, cao su làng Mạt, trâu bò làng Mạt... Nghe vậy vài người dân Tân Thủy bứt rứt khó chịu vì người ta coi thường mình quá nhưng đa phần thì vô tư, nghĩ mình đang mạt quá người ta gọi thế cũng có phần đúng chứ có sao đâu. Làng nào chẳng thế. Những khó khăn, thiếu, đói thậm chí có lúc nhếch nhác lúc mới khai thiên lập địa làm sao tránh khỏi.
'Cơ cực lắm bác ơi'! Đó là câu trả lời thường trực của những người dân Tân Thuỷ khi tôi hỏi thăm tình hình lúc mới lên lập nghiệp.
- Cực ra làm sao? Tôi hỏi thử anh Thử....
30/09/2024 lúc 16:52
T
iết trời đã vào cuối xuân, nắng trải vàng au trên từng mái nhà, góc phố. Trên các ngã đường của thị trấn huyện lỵ Gio Linh, đâu đâu cũng thấy phấp phới cờ đỏ sao vàng. Màu vàng của nắng và màu đỏ của cờ như hòa quyện lại tạo nên một cảnh sắc yên ả, thanh bình. Gio Linh- mảnh đất từng bị bom cày, đạn xới, làng mạc xác xơ, tiêu điều trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, giờ đã hồng da, thắm thịt sau hơn ba mươi năm lăm dựng xây với những cánh đồng lúa mượt mà, xanh biếc ở Trung Sơn, trung Hải, Gio Mỹ, Gio Quang...và những vườn cao su, hồ tiêu ngút ngàn, trù phú ở Gio An, Gio Bình, Gio Sơn, Hải Thái...
30/09/2024 lúc 16:52
C
hiến đấu nhiều năm trên chiến trường Quảng Trị và có hơn hai năm phụ trách Tư lệnh Phòng không của Quân khu IV, tôi nay là Đại tá đã về hưu, tám mươi tuổi, sinh sống với con cháu tại Hà Nội. Kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng Quảng Trị, tôi có hai mẫu chuyện kÓ về chiến trường xưa. Hẵn là không có gì li kỳ, song cực kỳ thú vị vì câu chuyện từ cuối thế kỷ XX, nay được sống lại ở đầu thế kỷ XXi. Tất cả họ và chúng tôi đều là những nhân chứng lịch sử, vừa gặp lại nhau mới đây trên mảnh đất Quảng Trị anh hùng....
30/09/2024 lúc 16:52
Tết Đinh Mùi 1967 là cái tết đầu tiên xã Trung Giang của tôi cùng với các xã vùng giới tuyến, dọc bờ Nam sông Bến Hải thuộc huyện Gio Linh được giải phóng, người dân quê tôi sung sướng được tắm mình trong không khí tự do của mùa xuân dân tộc. Tiếng cười tiếng nói lại rộ lên khắp thôn cïng, xóm vắng, xua tan sự trầm uất của những năm tháng phải sống âm thầm lặng lẽ như những chiếc bóng dưới thời Mỹ-Nguỵ kiểm soát. Nét mặt mọi người hân hoan rạng rỡ, thắm tươi như hoa lá mùa xuân. Đây cũng là cái tết đầu tiên sau mười ba năm nước nhà tạm thời chia cắt, những gia đình ở bờ Nam được đoàn tụ với người thân sèng trên đất Bắc...
30/09/2024 lúc 16:52
Kinh đô kháng chiến Cần Vương mà tôi nhắc tới đây là kinh đô Tân Sở, thuộc vùng Cùa, Cam Lộ. Đã được Bộ Văn hoá thông tin xếp hạng di tích Quốc gia vì tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của nó, song nếu xếp chỉ để mà xếp thôi thì chưa đủ. Ba mươi lăm năm qua, tôi có dịp theo dõi, đọc hàng chồng báo cáo khoa học từ vùng miền, quốc gia về kinh đô kháng chiến này nhưng có đến Tân Sở một lần mới thấy nổ lực của các học giả xưa nay cũng chỉ dừng lại ở mặt lý thuyết. Lý thuyết sôi động bao nhiêu thì hiện trạng kinh đô kháng chiến Cần Vương này trầm mặc bấy nhiêu. Tự thân nó đã, đang và sẽ lùi sâu vào quá vãng, vì đã phủ lên đấy lớp bụi mờ thời gian để hoang hoá, phế tích, điêu tàn; thật sự con người đã hoàn toàn bỏ ngõ.
30/09/2024 lúc 16:52
N
ghề nghiệp cho tôi nhiều chuyến đi đây đó, và trong bao nhiêu cuộc vui nơi đất khách quê người gặp bà con cùng xứ, bao lần phải nao lòng vì một câu hỏi: Quê miềng, làng miềng, chừ ra răng?
Có phải quan san cách trở gì đâu, chỉ 24 giờ tàu lửa hay xe đò là từ Sài Gòn ra đến Đông Hà, mười phút xe ôm là về tới làng, người làm ăn khấm khá thì với hơn mét giờ bay Airbus là đến Phú Bài, thêm một giờ taxi nữa là đến quê, là nghe vang lên những địa danh nằm lòng tận cội nguồn ký ức: Chợ Phiên, cầu Đuồi, là Đầu Mầu, Tân Lâm, là chợ Sòng, An Lạc, là xứ Cùa thơm tiêu ngọt mít… Cam Lộ làng xưa đây, bây giờ thì khó mà nhận ra dấu cũ. Tôi sống ở Đông Hà, xa xôi gì đâu vậy mà vẫn cứ thèm những ngày phiên lên chợ ngồi “chò hỏ” ăn bánh ướt, thứ bánh ướt rất riêng của chợ này mà đi nhiều xứ chưa thấy đâu có được...
30/09/2024 lúc 16:52
T
ôi ngồi với Minh trong suốt buổi chiều chỉ để ngắm từng đoàn thuyền từ phía Lông Hà, Tân Lợi, Hà Lộc, Đại Lộc (xã Do Hải và Gio Việt) bên kia sông và Phù Hội, Hà Tây, An Lợi (xã Triệu An) bên này sông đang cùng nhau hối hả hướng về Cửa Việt đê vượt sóng ra khơi. Người bạn cùng chăn trâu, tắm sông của tôi thuở thơ ấu cứ mân mê mãi trên tay những hạt muối trắng tinh khôi lấy từ đồng muối cuối làng và khẳng định từ năm mươi phần trăm mồ hôi người làm muối, phần còn lại là nước biển. Chính cái vị mặn ấy là nỗi nhớ miên trường của Minh và người làng Tường Vân trong những ngày xa xứ, trong nhiều đêm mất ngủ ở quê người. Cả buổi chiều hôm đó, tôi lặng lẽ ngồi nghe Minh say sưa kể về cách làm muối của người làng và hiểu rằng để làm ra hạt muối, người làng Tường Vân phải dầm mình trong cái nắng tháng bảy, tháng tám đổ lửa để tinh luyện, cô đặc giọt nước biển thành váng muối rồi hạt muối. Minh buồn buồn đọc cho tôi nghe hai câu ca dao mà theo Minh đã vận vào đất làng rằng “Tường Vân là làng éo le/ Lấy đất làm muối, lấy tre làm nồi” rồi giải thích cho tôi hiểu rằng “éo le” cũng bởi làng nằm trên bán đảo được bao phủ ba bề là sông nước và choải mình ra phía hợp lưu của hai con sông Thạch Hãn, sông Hiếu trước khi xuôi về Cửa Việt, đổ vào biển đông. Rằng mặc dù sông gần Biển nhưng người làng Tường Vân không làm biển mà làm ruộng một vụ, làm muối, nuôi vịt. Rằng ngày xưa các cụ thường dùng nồi đất để nấu nước biển thành muối như chứ chưa làm ô, chạt phơi nước bển như bây giờ. Nấu muối, phơi muối, một đời người dân có khi nào giàu lên được từ hạt muối bao giờ, như người mẹ già nua của Minh, đôi chân phỏng rốp, đôi tay sần chai, cứ quần quật suốt ngày trên sân phơi muối đến cuối ngày cũng chỉ đủ tiền đong gạo. Ngày mai, Minh lại lên đường vào TP. Hồ Chí Minh, nơi Minh quyết tâm bám trụ lập nghiệp. Mười một năm trôi qua, mỗi đưa một phương, tôi chỉ còn biết vài thông tin mù mờ từ người làng rằng Minh đã lấy vợ và thi thoảng lắm mới ghé về quê dăm bữa rồi lại ra đi. Mảnh đất nghèo khó dù là quê hương khó nguôi ngoai trong tâm cảm vẫn không thể nào níu giữ Minh khi trong Minh, cái khát vọng lập nghiệp, làm giàu ở đất khách còn bùng cháy. Tôi từng nghĩ thế về Minh và mới đây, trong lần ghé thăm gia đình Minh, tôi đã nạc nhiên khi nghe tin Minh mấy tháng nữa sẽ đưa vợ con trở về quê hương sinh sống...
30/09/2024 lúc 16:52
B
ức tranh của Võ Xuân Huy như một mẩu ký ức đau đớn của tôi treo trên tường, về những ngày Thành Cổ Quảng Trị.
Tranh sơn mài, với hai màu đỏ vàng truyền thống. Màu đỏ là nền choáng ngợp cả bức tranh, mở ra một không gian có vẻ lạ lẫm với cuộc sống thường ngày của tôi bây giờ. Đó là không gian của máu, của lửa và của một sức đấu tranh nhằm, giành giật nhau từng tấc đất để sống. Tình cờ đứa bạn cũ mời đi uống nước ở một quán du lịch phía sau lưng Thành Cổ, tôi mới nhận ra điểm nhìn tổng quát của bức tranh. Nó trông giống và đẹp hơn so với bút pháp hiện thực muốn đưa người ta đắm chìm vào những chi tiết quá cụ thể. ở đây là phong cách trừu tượng nhằm tái sinh lại một thực thể bỗng nhiên đã bị trừu tượng hoá bởi chiến tranh.
Trước mắt tôi, ở cuối bức tranh là một đường thẳng hàng gợi nhớ lại một bức tường của Thành Cổ thuở bom đạn chưa huỷ diệt, trên đó những mảng vôi vữa vẽ nên những hình thù lở lói và ở bìa trái, một vết gì còn nguyên vẹn, gợi nhớ một con đường. Tiếp theo những hình ảnh quen thuộc của một ngôi thành bị tàn phá, là một mặt nước xanh biếc và phẳng lặng mà có lẽ là cái hào hộ thành. Trí óc tôi cứ liên tưởng về sông Thạch Hãn, đoạn sông đẫm máu khi bộ đội phải qua lại Thành Cổ dưới làn pháo địch. Cuối cùng bên mép rìa của con sông Thạch Hãn tưởng tượng, là một hàng lô xô những bụi lau vàng chói trong ánh nắng, những bụi lau anh hùng còn đứng vững trên mặt đất...
Hiện tại
26°
Mưa
15/01
25° - 27°
Mưa
16/01
24° - 26°
Mưa
17/01
23° - 26°
Mưa