Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 30/03/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Văn hóa thời đại

Đón nhận

16/01/2022 lúc 21:41






Đ





ến với “Bóng đời”, (tập thơ của Nguyễn Huấn- Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt nam 2009). Tr­ớc hết ta gặp một sự nuối tiếc quá khứ, sự biết ơn- lòng tri ân và những nỗi buồn man mác.
Chiều rơi nào nhớ ai đâu
Mà sao gió  cứ thổi đau lá vàng
Nhắc chi thuở ấy xốn xang
Nửa chiều bóng vắng mênh mang đợi chờ....
(Hồi niệm).
Buồn nếu không phải thứ lạm phát để ra vẻ, làm dáng- thì hiển nhiên là một thuộc tính tâm lí, nằm trong “bảy tình” vốn có của ng­ời ta. Nh­ trái đất có ngày phải có đêm, màu sắc có gam nóng bên gam lạnh, cuộc đời có niềm vui và nỗi buồn, mà th­ờng là buồn nhiều hơn vui. Cho nên, kiệt tác văn ch­ơng đ­ợc cả Dân tộc x­a cũng nh­ nay- từ vị Hoàng đế chí tôn mê nôm Thúy Kiều của thế kỷ tr­ớc, đến đất hỏa tuyến- những chàng trai lớp bảy lại ngâm Kiều sau những đợt giao tranh đều yêu thích, mới là một tiếng kêu “đứt ruột”. Nguyễn Trãi- tác giả một áng “thiên cổ hùng văn”- khi đón mùa đẹp nhất trong năm, cũng than thở: “Thức Xuân một điểm não lòng nhau”. Có phải vì sầu bi mà họ kém vĩ đại đi đâu. Phải chăng chính vì mang những nỗi buồn sâu sắc đó, thiên tài lại càng nhân bản, thân thiết với chúng ta hơn?
........
 

Người tấu khúc nhạc hồn quê

16/01/2022 lúc 21:41






T





âp thơ Cái Rốn() là đứa con đầu lòng của Nguyễn Văn Đắc gửi đến bạn đọc yêu thơ. Cái Rốn mang hơi thở mộc mạc miền quê gió Lào cát trắnvới phong vị triết lý, bởi tin yêu cuộc sống, tin yêu con người. Ba mươi bảy bài thơ vừa đủ để bạn đọc thức nhận về tâm hồn thi sĩ Nguyễn Văn Đắc.
Cái Rốn đã thể hiện một sự lựa chọn và bản lĩnh thơ. Lựa chọn đề tài phù hợp với tạng tư duy và đã tạo ra chất thơ riêng khác khó trộn lẫn. Căn bản, Nguyễn Văn Đắc là "nhà thơ của đồng quê". Cái chất này bàng bạc trong suốt hành trình sáng tạo của anh. Tập thơ là sự tập trung có chủ ý qua một biểu tượng trữ tình xuyên suốt: Cái Rốn. Cái Rốn chính là tinh tuý của hồn quê, tình mẹ, nghĩa phu thê, tình bạn bè, tình yêu và tình quê hương, đất nước… Cái Rốn lúc ẩn, lúc hiện giúp người thơ làm tròn nhiệm vụ khám phá chính bản thân mình trong các mối quan hệ. Thế nên, cái Rốn là cái đẹp, là khát vọng vươn tới cái đẹp, cả nỗi đau và hạnh phúc.
.............
 

Đôi dòng cảm xúc

16/01/2022 lúc 21:41






D





ân tộc ta vốn rất yêu thơ. Ngay từ thời xa xưa bên cạnh những tên tuổi lẫy lừng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… đã có không ít những nhà thơ “không chuyên” – các hoàng đế, các thiền sư, các võ tướng đã góp phần làm cho nền thơ dân tộc thêm đa dạng về chủng loại và lộng lẫy sắc hương.. Ngày nay truyền thống tốt đẹp ấy đã được tiếp nối một cách tự nhiên và sôi nổi dồi dào hơn trước. Nó là “đẹp” vì suy cho cùng nếu một dân tộc có nhiều nhà thơ, e rằng dân sẽ dễ bị đói, nhưng nếu có rất nhiều người yêu thơ, cuộc sống tinh thần của dân tộc ấy sẽ trong sáng, hướng thiện, không bị văn minh vật chất với lối sống thực dụng tầm thường lũng đoạn. Nhà doanh nghiệp Phạm Bá Nhơn thuộc lực lượng “không chuyên” ấy và là Nguồn cuội mà quý bạn đọc đang có trên tay là thi phẩm thứ hai của anh.
Bị chìm trong guồng quay đến chóng mặt của công việc kinh doanh xây dựng, anh vẫn tỉnh táo để có thu xếp cho mình những phút giây nhàn rỗi hiếm hoi. Những đêm khuya “khi tỉnh mộng lúc tàn canh”, những lúc dong duổi trên đường thiên lý hoặc trên tầng cao của mây trời, để thả hồn vào mảnh vườn thơ tĩnh lặng của riêng mình. Trước khi đứa con tinh thần của Phạm Bá Nhơn có được những người tri kỉ, anh muốn qua thơ để có thể thầm thì tâm sự với chính mình.
...........
 

Xuân Đàm - Con tằm đến thác ...

16/01/2022 lúc 21:41






K





hi nghe Kim Quý ( NSƯT Kim Quý) nói anh Xuân Đàm đang gấp rút hoàn thành một bản thảo cuốn sách "dối già", tôi hết sức kinh ngạc. Và khi đến thăm anh, nhìn thấy đống giấy lộn xộn, ngổn ngang ở một góc bàn, tôi mới tin đó là sự thật..Kinh ngạc, rồi khâm phục..rồi cảm động và ngậm ngùi. Chợt vang lên từ trong thăm thẳm tiềm thức tôi câu ca của dân gian: Con tằm đến thác vẫn còn buông tơ.
Tôi nói: Xuân Đàm, con tằm đến thác ...mà không sợ là đã gở mồm, nói điều xui xẻo. Bởi cách đây hơn 4 năm, lúc đó tôi đang tại nhiệm chức vụ Giám đốc Sở Văn hoá- Thông tin thì anh Xuân Đàm gặp bạo bệnh..Tình trạng bệnh tật của anh nghiêm trọng đến mức chị Quý đã bắt đầu cho tháo dở mảng tường phía cửa chính để rộng lối ra vào chuẩn bị phương án lễ tang. Tôi đã trình Uỷ ban tỉnh dự kiến Ban lễ tang, lại còn điện cho anh Trọng Khôi ( NSND Trọng Khôi, lúc đó là Chủ tịch Hội NSSK VN) bàn về việc phối hợp tổ chức tang lễ và đề nghị anh Khôi tham gia Ban lễ tang. Tôi cũng đã bắt tay viết thảo những lời tiễn biệt. Nếu nói là gở, là xui thì chính những việc làm như đã kể trên cách đây 4 năm mới đáng sợ. Nhưng bất chấp tất cả, Xuân Đàm vẫn ngồi dậy, vẫn đứng lên, vẫn rung rinh mái đầu bạc phơ và chòm râu già xoăn gốc rễ tre mà anh đã thôi không cạo nữa từ khi lâm bệnh, để đi bộ buổi chiều và đánh "phỏm" buổi sáng. Chỉ như vậy thôi cũng đã thấy một nghị lực siêu phàm. Bây giờ lại thấy anh viết, anh chuẩn bị ra sách. Và nếu ai ở Quảng Trị trong những ngày này đều biết gia đình Xuân Đàm đang phải vượt qua một bạo bệnh khác, một loại bạo bệnh cuộc sống mà với người bình thường thì có thể đã gục ngã ngay lập tức. ............
 

Nhà giáo, nhà văn Ma Văn Kháng

16/01/2022 lúc 21:41






T





rong nền văn học Việt Nam hiện đại có không nhiều nhà văn vào thời còn trai trẻ, tr­ớc và những năm đầu cầm bút viết văn (sáng tác, nghiên cứu, phê bình, dịch thuật) đã từng là giáo viên bậc tiểu học, trung học.
Tr­ớc Cách mạng tháng 8/1945, có thể kể, đó là: Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nguyễn Lân, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, D­ơng Quảng Hàm, Nam Cao…
Sau ngày đất n­ớc giành độc lập, n­ớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, con số các nhà văn xuất thân là nhà giáo xuất hiện ngày càng đông hơn, mở rộng đến các nhà giáo giảng dạy ở bậc Đại học. Lúc này có thể nói tới: Hoàng Xuân Nhị, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Tr­ơng Tửu, Tr­ơng Chính, Hoàng Nh­ Mai, Nguyễn Văn Hạnh, Ph­ơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Ngọc Trà… và Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Giang Nam… tiếp đến Hoàng Ngọc Hiến, Mai Quốc Liên, Hoàng Văn An, Vũ Nho, Phạm Quang Trung… cùng nhiều ng­ời khác nữa.
............
 

Trang văn thức trọn kiếp người

16/01/2022 lúc 21:41






N





ếu ai đó hỏi, sự nghiệp văn chương của Hoàng Phủ Ngọc Tường rút cuộc là gì? thì câu trả lời: bút ký. Bút ký Hoàng Phủ là những giọt mưa dầm được lọc qua vỏ trái đất, bốc hơi và ngưng tụ thành sương, âm ỉ thấm cả vào đá núi. Trong Ai đã đặt tên cho dòng sông, ngoài “số trang” được lấy từ 2/3 cuốn Trịnh Công Sơn - Cây đàn Lya của Hoàng tử bé (mà tôi mạn phép không bàn tới trong bài viết này); trong khối lượng đáng nể của mình, Hoàng Phủ đã “dứt ruột” (chỉ) chọn ra 16 bút ký, nên là tinh tuyển, đáng gối đầu giường đọc một cách chậm rãi.
.........
 

Sáng tác về Bác Hồ - Niềm vinh dự của văn nghệ sĩ, nhà báo Quảng Trị

16/01/2022 lúc 21:41






S





inh thời, Bác Hồ kính yêu luôn quan tâm dõi theo và dành nhiều tình cảm mến thương cho mảnh đất, con người Quảng Trị và mỗi một người dân Quảng Trị cũng luôn một lòng hướng về vị cha già của dân tộc.
 Xuất phát từ tình cảm yêu thương và trân trọng đối với Bác, ngay sau khi tỉnh Quảng Trị phát động cuộc thi sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí về chủ đề “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đội ngũ văn nghệ sỹ, nhà báo Quảng Trị đã nỗ lực phấn đấu không ngừng để sáng tạo nhiều tác phẩm mới có sức lay động mạnh mẽ về Bác. Cuộc vận động sáng tác về Bác Hồ kính yêu đã đáp ứng tình cảm thiêng liêng, tha thiết đồng thời là niềm vinh dự lớn lao của đội ngũ văn nghệ sỹ, nhà báo Quảng Trị.
Sau một năm triển khai, kết thúc đợt 1, Ban Tổ chức đã nhận được 126 tác phẩm dự thi của 7 Phân hội. 14 tác giả và tác phẩm xuất sắc đã được trao thưởng tại Lễ sơ kết đợt 1.  
     Trên lĩnh vực báo chí, với khẩu hiệu “ Đến với những nơi tiên tiến, đến với những con người tiên tiến”, bám sát thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, quê hương và thực tiễn Cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, các nhà báo Quảng Trị đã không quản khó khăn, vất vả, lặn lội đến vùng sâu, vùng xa để tìm hiểu, giới thiệu, phản ánh những tấm gương cá nhân, tập thể điển hình trong phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ. Qua đó, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, tình cảm và hành động, hình thành phong trào tự tu dưỡng, tự rèn luyện, tự nguyện làm nhiều việc tốt, làm theo tấm gương đạo đức của Bác, góp phần bồi đắp nền tảng văn hóa lành mạnh trong toàn Đảng và xã hội, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống. Báo chí cũng đã tập trung tuyên truyền về nội dung, mục đích, ý nghĩa, tác dụng cuộc vận động; nội dung tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức của Bác. Qua phản ánh của báo chí có thể thấy cuộc vận động lớn đã và đang đi vào cuộc sống của toàn dân; tạo nên động lực thi đua “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.  Các tác phẩm báo chí tiêu biểu là: “ Nghĩa tình Nakhomphanom” của Mai Anh, “ Người đảng viên và hơn 2.000 bức ảnh về Bác Hồ” của Thanh Châu. Đặc biệt, tác phẩm “ Hai việc làm từ một cuộc vận động lớn”  của  nhà báo Đào Tâm Thanh đã được Ban chỉ đạo cuộc vận động sáng tác, quảng  bá các tác phẩm văn học nghệ thuật về chủ đề “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” Trung ương trao tặng giải thưởng nhân sơ kết một năm cuộc thi.
Được tham gia sáng tác, quảng bá và thể hiện hình tượng Bác Hồ vừa là tình cảm, vừa là sự tri ân đối Bác, vừa là niềm hạnh phúc, vinh dự của đội ngũ văn nghệ sỹ và nhà báo Quảng Trị. Trong lĩnh vực Văn học, các tác phẩm thơ, văn xuôi đã ghi lại cảm xúc về Chủ tịch Hồ Chí Minh  khi tác giả tiếp cận những câu chuyện về Bác và những lần gặp Bác. Các tác giả đã chú ý khai thác những tư liệu và kỷ niệm để khơi nguồn cảm hứng, khắc họa chân dung, phong cách, sự nghiệp, tư tưởng đạo đức, tấm gương đạo đức của Người, truyền vào tác phẩm tình cảm kính yêu Lãnh tụ của mình. Các tác phẩm đã giúp đọc giả hiểu thêm cuộc sống giản dị, thanh cao nhưng rất gần gũi của Bác đồng thời  thể hiện tâm tư, tình cảm, suy nghĩ hành động phải làm sao cho xứng với Bác hơn. Tiêu biểu là Bút ký “Vẫn sống mãi chiếc máy cày Bác tặng” của Trần Biên- Trần Hoài, “Người kéo lưới trước biển” của Hoài Quang Phương.
       Các tác phẩm Mỹ thuật đã  khắc họa  hình ảnh Bác thật gần gũi, ấm áp. Đó là hình ảnh giản dị, thân thương của Người trong tác phẩm “Tình Bác với nông dân” của Trương Minh Dự, “Người Vân Kiều - Pa cô mang họ Hồ của Bác” của Nguyễn Thế Hà.  Tác phẩm “ Vinh dự bên Bác” của Trịnh Hoàng Tân với phong cách nghệ thuật đương đại, ấn tượng biểu lộ sự khoáng đạt, tư duy mới trong cách nhìn và thể hiện nhân vật điển hình- Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hình tượng Bác Hồ còn  là nguồn cảm hứng vô tận để các nhạc sĩ sáng tạo nhiều tác phẩm mới có giá trị như các ca khúc: “Đêm giao thừa nhớ Bác” của Võ Thế Hùng, “Lắng đọng tình Người” của Lê Thanh Ngọc, “Phút bên Người” của Trần Tích. Trong lĩnh vực Văn nghệ dân gian, Vũ Mạnh Thi đã khơi nguồn chất dân ca Bình Trị Thiên để dựng lại chân dung vị cha già kính yêu của dân tộc với những làn điệu ngọt ngào, sâu lắng, tình cảm nồng nàn, tha thiết. (Tổ khúc dân ca Gương Người sáng mãi trong con )
      Cuộc vận động sáng tác quảng bá các tác phẩm  báo chí, văn học nghệ thuật về chủ đề “ Học tập và làm theo tấm gương đạo  đức Hồ Chí Minh”  năm 2010 ( đợt 2) tiếp tục được anh chị em văn nghệ sỹ, nhà báo Quảng Trị hưởng ứng tham gia tích cực; với loại hình hết sức đa dạng, phong phú.  Đến tháng 6/2010, Ban Tổ chức cuộc thi đã nhận được 85 tác phẩm văn học nghệ thuật bao gồm:  văn học, kịch bản sân khấu, công trình văn nghệ dân gian,  nhiếp ảnh, hội hoạ, âm nhạc cùng 60 tác phẩm báo chí.  Nhìn chung thành phần cũng như đối tượng, thể loại dự thi phong phú hơn hẳn so với năm trước; chất lượng nghệ thuật cũng được nâng cao.  Mỗi tác phẩm mang một dáng vẻ khác nhau nhưng tựu chung lại, đội ngũ văn nghệ sỹ, nhà báo Quảng Trị đã dồn nén cảm xúc vào tác phẩm báo chí, văn học nghệ thuật, “những đứa con tinh thần” của mình; thông qua đó làm nổi bật và sống động tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cổ vũ, nêu gương người tốt việc tốt, nhân tố mới điển hình, góp phần mang lại hiệu ứng xã hội tích cực; góp phần đưa Cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đi vào cuộc sống. Ban tổ chức Cuộc thi đã hoàn thành chấm sơ khảo; đang chuẩn bị tiến hành trao giải đợt 2 vào dịp kỷ niệm 65 năm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9.
    Theo kế hoạch, Cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm Văn học nghệ thuật- Báo chí  theo chủ đề “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” còn tiếp tục đến năm 2011.
     Năm tháng trôi qua, đất nước, quê hương Quảng Trị đang trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống xã hội đã có nhiều thay đổi, nhưng tấm lòng và tình cảm của đội ngũ văn nghệ sĩ, nhà báo Quảng Trị vẫn tâm huyết gắn bó với Đảng, với Bác Hồ kính yêu. Các giá trị tư tưởng, đạo đức mới được hình thành trên nền tảng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đã được đơm hoa kết trái qua những nhân tố mới của cuộc sống; đang hiện diện rõ nét hàng ngày hàng giờ trên quê hương Quảng Trị - đó chính là chất liệu sống động để đội ngũ văn nghệ sỹ, nhà báo tỉnh nhà sáng tác ra các tác phẩm có giá trị. Bằng tâm huyết, trách nhiệm của người cầm bút, từ tấm lòng yêu kính Bác vô hạn, đội ngũ  nhà báo, văn nghệ sỹ Quảng Trị sẽ tiếp tục đồng sức đồng lòng, nỗ lực tìm tòi sáng  tạo nhiều hơn nữa những tác phẩm có chất lượng cao, có giá trị lâu bền về Bác.  Để làm được điều đó, hơn lúc nào hết, đội ngũ văn nghệ sỹ và nhà báo Quảng Trị sẽ luôn trau dồi, rèn luyện, học tập Bác, nhất là làm theo Bác để hoàn thiện mình, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị mình vững mạnh về mọi mặt.  Sẽ tự nguyện đi vào thực tiễn cuộc sống, đi đến những vùng sâu vùng xa để ghi lại và phản ánh về những tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến học tập và làm theo tấm gương của Bác trong các lĩnh vực, các tầng lớp nhân dân. Tiếp tục tuyên truyền về Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” , về chuyên đề “ Xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, là đạo đức là văn minh”.
Khắc ghi lời dạy của Bác: “ Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”, đội ngũ các nhà báo, văn nghệ sỹ Quảng trị đã và đang tích cực hưởng ứng cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm báo chí, văn học nghệ thuật với chủ đề “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và chủ đề này sẽ trở thành một trong những chủ đề trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình sáng tác của đội ngũ nhà báo, văn nghệ sỹ Quảng Trị; góp phần cống hiến đắc lực hơn nữa trong công cuộc xây dựng quê hương Quảng Trị phát triển bền vững trên con đường hội nhập đổi mới hôm nay.
 
P.M.Q
 

Văn hóa giao thông và nhân cách người tham gia giao thông

16/01/2022 lúc 21:41

I.Văn hóa giao thông đô thị





G





iao thông đô thị là một qui luật tất yếu của quá trình đô thị hóa (urbanisation). Xu hướng này mạnh như bão táp, phát triến với tốc độ “phi mã”. Thế kỷ XXI là mốc đánh dấu kỷ nguyên trong đố phần lớn dân cư thế giới cư trú ở nông thôn bước sang kỷ nguyên mới với dân số hầu hầu hết ở các đô thị. Theo dự báo của khoa dân số học, trong mười bốn thành phố trên thế giới có số dân từ 10 đến 30 triệu người, thì châu Á đã có 9 thành phố. Những năm 40, 50 của thế kỷ XX cứ một trăm dân thì có một người sống ở đô thị. CUối những năm 80, tỷ lệ này tăng lên 10 lần. Hiện nay trong số một nửa dân số sống ở đô thị, thì 90% thuộc về các nước đang phát triển. Người ta dự báo rằng, đến 2025 dân số ở đô thị là 61%, còn ở nông thôn chỉ còn 39%. Hiện tượng “bùng nổ dân số” gây ra sự rối loạn giao thông là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến vi phạm giao thông.
...........
 

Cùng suy ngẫm với

16/01/2022 lúc 21:41






T





ôi có trong tay tập tiểu luận văn hóa - văn nghệ Suy ngẫm với thời gian của nhà nghiên cứu Nguyễn Hoàn. Tập sách được phân chia thành các chủ điểm cụ thể: 1. Tìm trong lịch sử, 2. Duyên văn, 3. Nghề báo, 4. Nhạc Trịnh – những góc nhìn và phần Phụ lục. Tất cả được tác giả ấp ủ và viết trong khoảng thời gian khá dài với nhiều trở trăn, suy ngẫm. Cảm nhận chung đầu tiên của tôi đối với tập sách là tác giả đã có cái nhìn nhất quán, khách quan và khoa học trong nhận định và suy nghĩ. Ở từng vấn đề, Nguyễn Hoàn thật sự tâm huyết, cố gắng chỉ ra những chứng cứ thỏa đáng và thuyết phục, làm cho những điều tưởng giản đơn lại lấp lánh lời giải đáp trước tầm đón nhận của của con người thời hiện đại, dù có những vấn đề đã lùi về xa cũ. Đó chính là giá trị tổng thể của tập tiểu luận mà tôi muốn làm người tiếp nhận đồng sáng tạo với Nguyễn Hoàn.
Chùm bài ở phần 1 Tìm trong lịch sử, theo tôi là đáng chú ý hơn cả, bởi Nguyễn Hoàn đã dày công tìm hiểu, đánh giá từ trong di sản và lịch sử để rút ra những kết luận sắc sảo, có phát hiện bổ sung về từng con người và sự kiện của quê hương Quảng Trị dưới ánh sáng của chân lý cuộc sống và sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian. Bài Thượng thư Lê Trinh - người tôn vua Duy Tân và cứu Phan Châu Trinh thoát khỏi án chém đã làm hiện lên một con người, một tấm lòng nghĩa hiệp cao cả của Thượng thư Bộ Lễ Lê Trinh khi ông tham gia giải những “bài toán lịch sử” éo le, lúc vận nước gian nan: “Hai đóng góp sáng giá của Thượng thư Lê Trinh trong thời kỳ này, đó là việc tôn vua Duy Tân lên ngôi, sau khi thực dân Pháp phế truất vua Thành Thái và việc không xử chém Phan Châu Trinh, mặc dầu Pháp gây sức ép, nhờ vậy mà nhà yêu nước và vị vua Duy Tân nổi tiếng này có điều kiện tiếp tục hoạt động, cống hiến cho phong trào Duy Tân, cứu nước” ( tr.9 ). Với các chứng cứ và biện luận sắc sảo, Nguyễn Hoàn đã làm cho vấn đề trở nên sáng tỏ, từng mối quan hệ giữa vua Duy Tân, giữa Phan Châu Trinh với Lê Trinh cũng được minh xác, chúng tỏ rằng “Lê Trinh dẫu làm quan trong thế kẹt: vận nước ngàn cân treo sợi tóc, không ít vị quan chỉ là bù nhìn hoặc cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp, ông vẫn tìm cách lo nước, thương đời theo cách riêng của mình, trường hợp đó đã chứng tỏ phẩm chất và tiết tháo nhà Nho đáng quý, đáng trân trọng của ông”. Ông đã “không xu thời, buông xuôi, để tỏ được “lòng son” của mình qua việc tôn phò vua yêu nước, xử bênh cho nhà duy tân cứu nước” (tr. 20).
Bài “Tự chỉ trích” - Tác phẩm lý luận nổi tiếng đúc kết kinh nghiệm xây dựng Mặt trận của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừđược Nguyễn Hoàn tái hiện cụ thể qua từng hoàn cảnh, từng chi tiết để thấy sự sâu sắc của Nguyễn Văn Cừ khi “phân tích, mổ xẻ các vấn đề, nhất là chỉ ra những tư tưởng lệch lạc của một số đồng chí lúc đó và những khuyết điểm trong công tác vận động quần chúng một cách xác đáng, từ đó tìm hướng sửa chữa, làm cho Đảng thống nhất và mạnh mẽ hơn, đạt được hiệu quả đó là do tác phẩm đã nắm lấy nguyên tắc tự chỉ trích bôn-sê-vích” ( tr. 23). Nguyễn Hoàn đi đến kết luận:  “Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi đồng chí Nguyễn Văn Cừ viết Tự chỉ trích nhưng vấn đề mà tác phẩm lý luận nổi tiếng này đúc kết vẫn vừa có ý nghĩa thời sự với chúng ta hôm nay, vừa có ý nghĩa “thấu thị” sáng suốt lâu bền trong công tác vận động quần chúng của Đảng, nhất là khi Đảng đã xác định: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân” (tr. 28). Tính thời sự - thời đại của bài viết chính là ở sự liên hệ với yêu cầu của cuộc sống và chiến lược phát triển con người hôm nay.
Tôi đặc biệt chú ý hai bài viết của Nguyễn Hoàn về Tổng Bí thư Lê Duẩn. Bài Tổng Bí thư Lê Duẩn với chân lý “Lao động, tình thương và lẽ phải” đã nêu và phân tích được hệ giá trị Chân - Thiện - Mỹ theo quan niệm mới của Lê Duẩn: “Yêu lao động, giàu tình thương, trọng lẽ phải, đó là những phẩm chất cơ bản cần được bồi dưỡng và hoàn thiện để cho con người có thể từng bước làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, tiếp cận và chiếm lĩnh được cái đúng, cái tốt và cái đẹp của cuộc sống. Làm chủ tập thể chính là cái đúng, cái tốt và cái đẹp cao nhất mà con người đang vươn tới trong thời đại mới”  (tr.29). Tác giả lần lượt phân tích bản chất của chân lý lao động, tình thương và lẽ phải. Đầu tiên là phải đặt nó trong mối quan hệ với các chỉ số AQ, EQ, IQ. Đó là chỉ số thông minh (Intelligence Quotient), tức chỉ số trí tuệ duy lý; kế đến là chỉ số trí tuệ cảm xúc (Emotion Quotient), tức sự minh mẫn cảm xúc; và cuối cùng là chỉ số nghịch cảnh (Adversity Quotient), tức “nói đến năng lực phát huy trí tuệ của con người trong nghịch cảnh, năng lực tìm ra lối thoát trong nghịch cảnh, trong những tình huống khó khăn, bế tắc…”. Như vậy, mối quan hệ trên chính là sự tổng hòa biện chứng của các thước đo IQ, EQ và AQ mà con người cần phấn đấu để đạt được trên hành trình lao động, sáng tạo để xây dựng cuộc sống mới, làm chủ bản thân, làm chủ thiên nhiên. Kế đến, Nguyễn Hoàn đi sâu phân tích tư tưởng Lê Duẩn về vai trò đặc biệt quan trọng của lao động trong việc tạo ra con người và văn hóa: “Có  lao động mới có con người, và có con người là có văn hóa”. Bài viết phân tích nội hàm vấn đề lao động là nguồn lực quý báu của tích lũy xã hội chủ nghĩa, vấn đề tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, tăng năng suất lao động, vấn đề cơ chế và lực lượng sản xuất, vấn đề khoa học kỹ thuật…Những vấn đề trên được Nguyễn Hoàn phân tích tỉ mỉ và thuyết phục trên cơ sở những ý kiến và chủ trương của chính Tổng Bí thư Lê Duẩn trong từng thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nguyễn Hoàn cũng đề cập đến quan niệm tình thương rất mới mẻ qua thực tiễn cách mạng cũng như vấn đề phát huy sức mạnh tổng hợp và tinh thần làm chủ theo quan điểm của Tổng Bí thư Lê Duẩn trong từng giai đoạn cách mạng để giúp người đọc thấy vai trò, trí tuệ và sự uyên bác của Lê Duẩn trong từng yêu cầu của lý luận và thực tiễn mà một nhà lãnh đạo như ông đã làm được: “Đó là những bước tiến mới trong tư tưởng phát triển toàn diện và bền vững đất nước ta, tạo ra sức mạnh tổng hợp kinh tế - văn hóa - con người, sức mạnh của chân lý lao động, tình thương và lẽ phải mà Tổng Bí thư Lê Duẩn hằng nêu. Chân lý đó bắt rễ rất sâu từ trong mạch nguồn truyền thống và văn hóa của dân tộc, là chân lý độc lập, tự chủ và sáng tạo, chân lý đó chính là minh triết Lê Duẩn, minh triết Việt Nam” (tr. 58). Đó là những nhận định sâu sắc và đúng sát với tư tưởng Lê Duẩn mà Nguyễn Hoàn đã tổng kết một cách có cơ sở từ lý luận và thực tiễn.
Bài thứ hai mà Nguyễn Hoàn đề cập là bài Tư tưởng đổi mới của Tổng Bí thư Lê Duẩn. Những luận điểm mà bài viết quan tâm là Câu chuyện NEP của Lênin, Vấn đề cải tiến chế độ quản lý kinh tế, Về chuyện “khoán chui” của đồng chí Kim Ngọc đến Chỉ thị “khoán 100”, Các bước đột phá về đổi mới tư duy kinh tế từ năm 1979 đến năm 1985, Tính chuyện hợp tác kinh tế với Mỹ sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ…Có thể nói, bấy nhiêu vấn đề là bấy nhiêu nan giải, phức tạp nhưng Nguyễn Hoàn đã lần vào bản chất bên trong của chúng để tường giải và thông diễn đến người đọc những tư tưởng đổi mới sâu sắc và nhạy bén của Tổng Bí thư Lê Duẩn. Qua đó, tác giả muốn khẳng định chân lý vĩnh cửu và những đóng góp to lớn của nhà lãnh đạo xuất sắc Lê Duẩn vào tiến trình cách mạng Việt Nam. Chúng tôi đánh giá cao kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàn qua hai tiểu luận nói trên....
 
 
 

 

Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

16/01/2022 lúc 21:41






C





ần phải cảm ơn công nghiệp hóa về những thay đổi mang tính lịch sử diễn ra trên đất nước ta hơn 20 năm qua. Sự kỳ diệu về kinh tế tác động mạnh mẽ và làm thay đổi sâu sắc cơ cấu xã hội, hệ thống giá trị, tâm lý, thói quen, lối sống của cả cộng đồng đến từng cá nhân riêng lẻ. Chất lượng sống được nâng lên. Không gian sinh tồn được rộng mở. Năng lực cá nhân được giải phóng. Xu hướng tiếp cận với các  giá trị chung của nhân loại trở thành thước đo và phẩm chất của tư duy mới. Một cục diện văn hóa mới đang được mở ra với nhiệm vụ trung tâm là chăm lo, phát triển nhân tố con người. Đối thoại, liên kết và hợp tác đem đến nhiều cơ duyên trong việc giải quyết những nhiệm vụ kinh tế, xã hội rộng lớn và tổ chức đời sống.
Tuy vậy, trong bản chất của nó, công nghiệp hóa và hiện đại hóa là một cuộc tích tụ và tập trung gay gắt, một cuộc tự vượt gian khổ và kỳ vĩ như cá vượt vũ môn, nhằm đưa một đất nước nghèo nàn và lạc hậu trở thành giàu mạnh và phát triển. Quá trình này làm phát sinh bao nhiêu vấn đề xã hội chưa từng gặp. Phân cực giàu nghèo diễn ra gay gắt với bao cảnh đau lòng. Lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, cuộc săn lùng các giá trị ảo, bệnh vô cảm, bệnh cũ người mới ta cùng với tham nhũng, cửa quyền, mất dân chủ, tàn phá môi trường đang làm xói mòn biết bao giá trị cao quý của dân tộc. Lương tâm đang kêu gọi các nhà văn. Và sự đáp lại của văn học trong thời gian vừa qua, công bằng mà nói là tâm huyết và đầy trách nhiệm. Các nhà văn chúng ta đã phát hiện vấn đề khá sớm và nắm bắt rất trúng một trong những chủ đề trung tâm của văn học ta hiện nay là vấn đề đạo đức xã hội. Đạo đức xã hội là vấn đề nóng nhất, một đề xuất quan trọng nhất của văn học ta trong những năm vừa qua. Nó được xem như một mũi nhọn, một khâu đột phá trong một tổng thể chiến lược: hoàn thiện xã hội, hoàn thiện thiên nhiên, hoàn thiện con người.
Là một cuộc cách mạng toàn diện và triệt để, công nghiệp hóa và hiện đại hóa luôn luôn biết tìm kiếm cho nó nguồn lực xã hội to lớn đủ sức đưa sự nghiệp đến thành công. Chưa bao giờ các nhà văn chúng ta có thể tích lũy được nhiều vốn sống, nhiều hiểu biết đến như thế. Chúng ta quan sát và suy nghĩ, nhập cuộc và lo âu. Cả một dân tộc đang tự đo tầm vóc của mình trước vận hội mới. Và mỗi một con người, chưa bao giờ phát hiện ra mình nhiều khả năng và sung sức đến như thế, đúng như Mác nói “trí tuệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Của cải vật chất mỗi ngày một nhiều lên kích thích nhu cầu mỗi ngày một phát triển, và đến lượt nó, nhu cầu lại kích thích của cải vật chất tăng lên nhiều hơn nữa. Cả một đất nước đang hăm hở và nhộn nhịp chăm sóc tương lai của mình.
Cuộc sống đã thay đổi, thực hiện đã thay đổi, đương nhiên văn học không thể đứng im. Quan niệm đầy đủ về sự đổi mới văn học, hiện đại hóa văn học là đổi mới, hiện đại hóa về tầm nhìn, tư tưởng, vốn sống, tư duy nghệ thuật cho đến cả phương pháp sáng tác, phong cách, ngôn ngữ, nhịp điệu v.v… Đó là một vấn đề vô cùng nghiêm túc khó khăn. Nhưng đổi mới cách nào, hiện đại hóa cách nào, trước nhất và quan trọng nhất văn học phải gắn với đời sống. Không gắn với đời sống thì không có gì cả. Không gắn với đời sống thì mọi tìm kiếm nghệ thuật dù có nhọc lòng đến đâu cũng chỉ là câu chuyện dã tràng xe cát. Cuộc sống hiện nay là tất cả những gì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra và đem lại cho mỗi chúng ta hôm qua, hôm nay và những ngày sắp tới. Nói đổi mới văn học, hiện đại hóa văn học là sự nghiệp vô cùng nghiêm túc và khó khăn vì nó đòi hỏi đổi mới đồng bộ, thống nhất và toàn diện. Đó là cuộc đổi mới về tài năng, tâm hồn, trách nhiệm và nhân cách chứ không chỉ và không phải là sự đổi mới về một thao tác nào đó. Quan tâm đến thi pháp là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng nhấn mạnh một chiều, thậm chí tuyệt đối hóa thi pháp, coi thi pháp là chìa khóa vạn năng lại là không thỏa đảng với bản chất của đổi mới văn học, có nguy cơ xa gần dẫn đến chủ nghĩa hình thức.
Có một lo lắng rất thiện chí là lo văn học ta tụt hậu với thế giới. Đó là một lo lắng rất đúng, một tâm huyết đáng trân trọng. Nhưng cần bổ sung thêm, còn có một mối lo nữa là lo văn học tụt hậu với đời sống, tụt hậu với dân tộc. Muốn khỏi tụt hậu với thế giới trước hết phải đứng chân rất vững trên nền tảng cuộc sống dân tộc, văn hóa dân tộc. Đó cũng là một nguyên tắc của hội nhập một cách chủ động và tích cực.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là một cuộc gặp gỡ văn hóa Đông Tây. Con người, chủ thể của văn hóa phương Đông tiếp nhận, thích nghi và làm chủ công nghệ, kỹ thuật của phương Tây. Đó là một quá trình tiếp biến văn hóa, cộng sinh văn hóa đầy bỡ ngỡ, khó khăn và vô cùng tinh tế. Ở đó có được và mất, trả giá và lớn lên, có cả nụ cười và nước mắt. Nhưng kết cục sẽ là sự thoát hiểm, thoát hiểm nghèo nàn và lạc hậu. Từ sự nhìn nhận đó, chúng ta thấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một cuộc cách mạng, một cuộc đấu tranh. Đấu tranh để lớn lên, để lột xác. Đó là chuyện động trời với những thay đổi đến choáng ngợp. Trong xã hội nông nghiệp kinh nghiệm làm nên tất cả. Trong xã hội công nghiệp tri thức làm nên tất cả. Trong cuộc đấu tranh này, nhiều khi, ranh giới giữa đúng và sai, anh hùng và phạm pháp chỉ như một sợi tóc. Vì sao? Vì đó là những chuyện chưa từng có. Lịch sử đang được làm mới lại. Và văn chương cũng đang được làm mới lại. Có người nói đến một cuộc nhập cuộc mới, dấn thân mới của nhà văn. Đó là một cách nghĩ đúng đắn, không hề cường điệu.
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa là một đề tài vô tận của văn học. Đó là thân phận của mỗi con người dưới tác động những thay đổi vũ bão, triệt để. Có những xung đột mới, bi kịch mới, thăng hoa mới diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống. Do đó, viết về công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo nếp suy nghĩ cũ là không đầy đủ...
 
 
 
 

Vận dụng phương pháp ước lệ của sân khấu truyền thống vào kịch hiện đại

16/01/2022 lúc 21:41






Đ





ầu năm học 1963.
Tôi vào năm thứ hai khoa đạo diễn Sân khấu trường Đại học Sân khấu Liên Xô cũ ở Mátxkva.
Năm đó bà giáo sư chỉ đạo nghệ thuật của tớp tôi – bà Maria – Ôxêpôrrua Kiêben đi thăm Nhật về.
Bà kể cho chúng tôi nghe về chuyến thăm của bà tại Nhật.
Bà hết lòng ca ngợi sân khấu truyền thống của Nhật: Nô – Kabuki. Nhưng khi nói đến sân khấu kịch nói bà hết sức thất vọng:
- Tôi xem vở “Một câu chuyện” ở Iếc Kút, tôi hoàn toàn thất vọng, vì họ đã thể hiện y hệt sân khấu Nga tại Mátxkva, từ trang trí phục trang cách diễn đều giống hệt người Nga diễn, chỉ có một cái khác là họ nói tiếng Nhật.
- Tôi nghĩ họ phải đem tư duy ước lệ sân khấu để tiếp nhận vấn đề của người Nga đặt ra để vận dụng sân khấu ước lệ của Nhật Bản để thể hiện “một câu chuyện ở Iếc kút” là trách nhiệm của sân khấu Nhật Bản. Nếu chỉ sao chép giống hệt như chúng tôi thì đó không còn là sáng tạo một vỡ diễn, mà chỉ là bản Phôtocóppi đơn giản. Ai có một trí nhớ tốt đều có thể làm được. Và bản phôtôcóppi ấy là vô dụng.
Vì vậy tôi nhắc các bạn Việt Nam đang có mặt ở lớp nầy là: - Các bạn học phương pháp thể nghiệm của Xtanhixlapxki nhưng phải vận dụng vào nền sân khấu ước lệ của Việt Nam và của phương Đông.
Vậy phương pháp ước lệ của phương Đông là gì.
Có lẽ trước hết phải nói đến luật “tam thống nhất” của kịch cổ điển phương Tây.
- Thống nhất không gian
- Thống nhất thời gian
- Thống nhất hành động
- Thống nhất không gian:
Kịch phải xẩy ra trong một không gian nhất định: Trong một phòng họp, trong một phòng ăn, trong một phòng ngủ… được kéo dài ít nhất là một màn (từ lúc mở mà đến lúc đóng màn ít nhất là 30 phút).
Cần nói thêm rằng cấu trúc nhà hát cổ điển như nhà hát lớn Hà Nội, nhà hát lớn Sài Gòn, nhà hát lớn Hải Phòng v.v … đều phải có tấm màn đỏ để đóng mở sau mỗi cảnh, để thay đổi cảnh trí, phục trang đạo cụ. Điều này khác hẳn với sân khấu ước lệ sân khấu truyền thống của chúng ta.
Trong sân khấu truyền thống của chúng ta không có trang trí tả thực cố định. Giang sơn một gánh trong hai cái hòm và một chiếc chiếu. Khi đặt gánh xuống lấy khăn đai, áo, mão, gươm, đao, giáo, mác ra thì cái hòm gỗ là vật trang trí duy nhất. Cái hòm sẽ là núi non trùng điệp, sẽ là hòn đá mài dao của các anh hùng, sẽ là chiếc giường ngã lưng trong đêm lạnh, sẽ là ngôi mộ người quá cố để người thân thắp hương bái vọng. Mọi thứ đều do diễn viên trình diễn cảm thụ và biểu hiện mà ra cả.
Cần nói thêm rằng sân khấu cổ điển Châu Âu (tôi nói cổ điển Châu Âu, vì ngày nay họ cũng đã thay đổi nhiều và tính ước lệ, không đóng chặt sàn gỗ trong từng cảnh cố định như ngày xưa.)
Còn sân khấu ước lệ truyền thống Việt Nam thì hoàn toàn trái lại.
Cũng chỉ trên sàn gỗ mấy chục mét vuông nhưng không gian lại vô cùng rộng lớn. Có thể kéo dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau trong vài chục mét chiều ngang sân khấu. Từ Hà Nội đi vài ba bước, quay một vòng quay là đến Huế, quay tiếp bước tiếp là Nha Trang, Sài Gòn. Vài động tác bơi tay hay thuyền thúng là qua sông qua biển. Có không gian hay không có không gian đều do diễn viên biểu diễn mà tạo nên.
Một mảnh chiếu trải trước sân đình trở thành một không gian rộng lớn, ở đó có thể trở thành một bãi chiến trường mà ngựa phi không biết mỏi, mà thiên binh vạn mã cùng các chiến binh giao chiến suốt ngày đêm, là máu chảy đầu rơi lai láng. (Thực ra chỉ 2 tướng và hai quân).
Tóm lại không gian sân khấu ước lệ truyền thống Việt Nam là không gian mở, không bỏ mặc trong trang trí tả thực, trong tám cánh gà cố định.
- Thống nhất thời gian
Hành động kịch chỉ được xảy ra trong 24 tiếng đồng hồ cho mỗi hồi. Trong một hồi có nhiều cảnh, nhưng tất cả các cảnh đều phải xẩy ra gọn trong ngày, với thời gian theo kim đồng hồ.
Điều này cũng hoàn toàn ngược lại với sân khấu truyền thống Việt Nam.
Trong sân khấu truyền thống Việt Nam thời gian có thể diễn ra mọi lúc: một giờ một ngày, một tháng có lúc hàng năm, trước sau không nhất thiết theo kim đồng hồ, quá khứ hiện tại, tương lai chen lẫn nhau, hư và thực có thể chen lẫn nhau. Người ta có thể biểu diễn cả quá khứ và hiện tại, ước mơ và hiện thực cùng một lúc.
- Thống nhất hành động:...
 

Nghe dạ khúc mùa thu

16/01/2022 lúc 21:41






Đ





ọc hết tập bản thảo thơ của Phan Đăng Quy tôi không có cảm giác như thường có của một người đang lần theo từng con chữ, khám phá ý nghĩa của những cảm xúc để rồi kết luận xem bài nào hay, bài nào tạm được, câu thơ nào xứng với bát gạo đồng tiền...Không. Cảm giác tôi lúc này, đêm của tiết Thu phân mưa rã rích, là đang nghe, nghe Quy thủ thỉ, nghe anh ngâm nga, có chỗ thì phảng phất chút men nồng đủ để giọng anh ngất ngưởng, chỗ lại u trầm thâm thuý, lúc thì thương nhớ quắt quay, lúc thì hào sảng đắc ý, lúc già sọm đi vì nỗi ưu tư, lại đôi lúc thấy anh trẻ lại hoặc là cố gượng cười để trẻ lại. Tập bản thảo thơ chưa đặt đề tựa, thứ tự từng bài không hề có chủ đích sắp đặt, toàn tập không biểu hiện một ý đồ tập trung chủ đề gì...Cả tập thơ là một sự ngẫu hứng, là những khúc ngâm tản mạn, khúc ngâm lúc tỉnh lúc say của một con người đã ở sườn dốc cuối thu.
Tôi lắng nghe và đồng cảm với Phan Đăng Quy vì mấy lẽ. Quy cùng trang lứa với tôi. Anh sinh năm Hợi ( 1947), tôi năm Tuất. Nơi sinh của Quy là làng Trương Xá- Cam Hiếu- Cam Lộ, một mảnh đất điển hình của sự đối đầu lịch sử ở Vĩ tuyến 17 này, cũng là vùng quê nặng trĩu kí ức chiến tranh đối với tôi và đã từng ám ảnh, thổn thức trên nhiều trang viết của tôi. Cuộc đời Phan Đăng Quy mới nghe cứ tưởng bình thường hoặc thông thường như nhiều số phận khác, nhưng ai đồng cảm lại nhận ra sự đặc biệt của một kiếp sống. Anh li quê phiêu bạt hàng mấy chục năm, nhưng không phải để kiếm tìm sự đổi thay căn bản, cũng không vì công tác hay do hoàn cảnh bắt buộc nào, đi khỏi đất Cam Lộ nhưng Phan Đăng Quy vẫn làm nông nghiệp, vẫn một kiếp sống thanh bạch thôn dã, anh bước chân đi không vì giấc mộng vàng nơi miền đất hứa, mà thân xuôi vạn lí  trong trạng thái như thể kẻ mộng du...
Những năm tháng ở Sài Gòn và mấy tỉnh miền Tây, Phan Đăng Quy đã trình làng 2 tập thơ. Khắc khoải xuất bản 2003, Những giọt đời xuất bản năm 2005 đều ở Hội Văn học Nghệ thuật Bến tre.
Nay thì, như cái lẽ đời rung rung lá rụng về cội, Quy trở về với con sông Hiếu để làm tròn chữ hiếu với tổ tông ông bà, anh cùng vợ đang ngày đêm phụng dưỡng mẹ già, hương khói trên bàn thờ tổ tiên.
Tôi phải trở về Cam Lộ quê hương`
Chăm sóc mộ phần hương khói tổ tiên
Bên dòng Hiếu Giang những mùa mưa đổ
Trôi chảy vào tôi nỗi nhớ phù sa.
                                            ( Trở về )
Tôi cho rằng, nếu như người làm thơ có rất nhiều con đường để tiếp cận đời sống và cũng nhiều cung bậc, nhiều phương pháp để biểu đạt cảm xúc của riêng họ, thì người cảm thụ thơ cũng có rất nhiều cách để thấu hiểu được nhà thơ. Đọc một tập mới của một nhà thơ đã thành danh mà ta thường hay nói là nhà thơ chuyên nghiệp, người đọc thường săm soi, đối chiếu để xem xem anh ta hôm nay có gì mới, có gì khác so với anh ta hôm nào, cả về tư tưởng lẫn phong cách nghệ thuật. Cái mới ấy có lúc đã đưa nhà thơ vượt lên một tầm vóc cao hơn nhưng cũng không hiếm trường hợp đã hạ anh ta xuống đẳng cấp chân đất. Còn với một tác giả vốn chân đất và đang nguyên rin chân đất kiểu như Phan Đăng Quy, tôi vẫn muốn lắng nghe hơn là đọc, bởi ở những tâm hồn thơ này, chữ nghĩa, ngôn từ không phải là thứ quá quan tâm, tôi muốn biết trong đêm, ở dưới mái nhà dân dã, nơi vùng quê yên ả bên con sông Hiếu xanh trong và lặng lẽ kia, kẻ có tâm hồn đa cảm và đã từng có một cuộc sống phiêu bồng lãng du hơn nửa kiếp người ấy, nay khi chiều tà bóng xế, ngồi tịnh tâm như thiền nơi cội nguồn sinh thành, lòng anh đang ngân lên những nốt thăng trầm thế nào?
Rất nhiều khúc cảm khái ngợi ca. Cảm khái trước anh linh các liệt sĩ thành cổ Quảng Trị bên bờ Thạch Hãn, anh như thẩm thấu được hương hồn họ đang bay bay như thể hương đàn trong câu ca xa xưa ở đất này " Không thơm cũng thể hương đàn / không trong cũng thể nước nguồn Hàn chảy ra"
Khí phách bay bay nguồn hương nhớ
Xương máu hoá dòng thơ tuyệt luân..
                                   ( Hương đàn)
Cảm khái về Bác Hồ, về thi hào Nguyễn Du, về tâm hồn và cốt cách cao cả của cụ bà thân mẫu của Bác:
...Thoi đưa trung hiếu vuông tròn
Võng đưa vinh nhục mỏi mòn mắt xanh
Tảo tần quên tuổi thanh xuân...
                                 ( Bên mộ Bà )
Cũng có nhiều khúc chiêm nghiệm chuyện đời, đạo đời theo triết lí  Khổng tử, Lão tử; cũng nhiều nỗi nhớ bâng quơ những miền quê xa xứ đâu đó trên đường đời lãng du...Cũng có đôi ba chỗ khúc ngâm buông thượt như một tiếng thở dài, thối chí.. Con người ta khi ở tuổi này, trong những đêm thanh vắng, cái sự nghĩ vẩn vơ, nghĩ bao đồng hoặc vài kỉ niệm chẳng đầu chẳng cuối cũng là lẽ thường. Những khúc ngâm thành thơ kiểu ấy là anh tự ngâm cho anh nghe, những lúc như vậy có lẽ Phan Đăng Quy không hề nghĩ đến độc giả....

Kiểu nhân vật dị biệt trong một số tác phẩm văn xuôi đương đại Việt Nam

16/01/2022 lúc 21:41






S





ự tha hóa dẫn đến một thế giới người nghịch dị cả về thể xác lẫn tinh thần, những người không làm chủ được bản thân, những người điên trở thành môtip quen thuộc. Bên cạnh những người bình thường là một thế giới nhân vật kì ảo: hồn ma, các đồ vật, cây cối… tồn tại đan xen bình đẳng. Không có gì là chuẩn mực trong các kiểu nhân vật này.
Nhân vật dị biệt, kì ảo không phải mới xuất hiện trong văn xuôi Việt Nam, nó đã có từ truyền thống của thể loại truyền kỳ, gần đây hơn là các nhân vật dị biệt trong tác phẩm Nam Cao, Vũ Trọng Phụng (Chí Phèo, Thị Nở, Xuân Tóc đỏ). Nhưng từ sau 1986, sự trở lại và nở rộ của kiểu nhân vật này mang một nhãn quan và ý thức khác của người viết. Nhân vật kỳ ảo cũng như các yếu tố kỳ ảo trong truyện truyền kỳ là thế giới mơ mộng, những ước vọng và cả trí tưởng tượng chất phác của người xưa. Nhân vật dị biệt của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng hàm chứa cái nhìn nhân đạo cũng như phê phán của nhà văn. Sử dụng phổ biến thủ pháp nghịch dị, giễu nhại trào lộng, trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái… xuất hiện hàng loạt các nhân vật dị biệt, kì ảo. Đó là kết quả của quan niệm về hiện thực đa chiều, của một xã hội đảo lộn mọi giá trị, nơi con người phải gánh chịu những “chấn thương” tinh thần từ bên trong.
2.2.1. Nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam qua sự so sánh với văn xuôi Nga Đào Tuấn Ảnh cho rằng: “Trong các tác phẩm của họ (các nhà hậu hiện đại Nga và các nhà văn Việt Nam như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương... - người viết chú thích), không thấy bóng dáng của nhân vật điển hình (…) mang tầm khái quát cho mọi tính cách lớn lao trong đời, mà thay vào là đủ mọi thứ hạng trong nhân gian, đại đa số là đám người u tối, nghịch dị cả về thể xác lẫn tinh thần và khá nhiều người điên” (1). Xây dựng kiểu nhân vật nghịch dị, tác giả không bao hàm thái độ đánh giá về đạo đức, nhân cách hay xem nhân vật như “một con bệnh”. Họ chỉ xem đó như một loại tồn tại vừa trống rỗng vừa vô nghĩa. Điểm nhìn trần thuật trao cho các nhân vật này sẽ đưa đến những cái nhìn khác logic thông thường, những ý nghĩa, những hệ giá trị khác được xác lập đầy bất ngờ và thú vị.
Sự tha hóa của con người dẫn đến một thế giới người nghịch dị về tinh thần và thể xác. Các nhân vật dị biệt cũng có nhiều loại. Hoài (Thiên sứ) chỉ dị biệt về hình dáng, sau “lễ rửa tội năm tiếng đồng hồ” trong phòng tắm ngày chủ nhật là “không bao giờ trở thành đàn bà nữa”, mãi dừng lại ở tuổi mười bốn (“1m, 30kg, đuôi sam”) đến năm hai mươi chín tuổi. Trong Không có vua có cả một gia đình nghịch dị về tâm hồn. Lão Kiền, Cấn, Khảm, Đoài, Khiêm (kẻ có nhân tính nhất trong mấy anh em) là những kẻ méo mó về nhân cách bởi đồng tiền và dục vọng tầm thường nhất. Cũng như vậy, hầu hết các nhân vật trong Người đi vắng (Nguyễn Bình Phương) là những con bệnh về tinh thần. Nỗi ám ảnh tích tụ từ tiền kiếp, qua đất Linh Nham, chảy vào họ. Hoang tưởng bệnh hoạn, điên loạn, tự kỷ ám thị trở thành số mệnh. Con người mục nát, thối rữa về tinh thần từ lâu nhưng không phơi bày lồ lộ như sự thối rữa, nhầy nhụa thân xác của Hoàn nên không phải ai cũng ý thức được tình trạng của mình. Các nhân vật nghịch dị của Hồ Anh Thái là kết quả của phép phóng đại đầy hài hước một vài nét tính cách lập dị, quái đản. Trong Mười lẻ một đêm trí tưởng tượng phóng túng đậm chất Nghìn lẻ một đêm tạo nên họa sĩ Chuối Hột “bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám mùa cởi mở”, khỏa thân tập yoga khi “cửa mở thông thống” hướng ra sân chung: "gã chống đầu xuống đất hai chân dốc thẳng lên trời, thân người bóng nhẫy trắng lôm lốp như thân chuối. Tất nhiên là chuối hột trổ hoa ở quãng lưng chừng trời". Đó là sở thích quái đản, còn công việc họa sĩ của gã cũng lố bịch không kém: nói tiếng Anh theo kiểu “I like play you”, làm nghệ thuật bằng cách “quăng quật mọi thứ linh tinh ra thành sắp đặt, vẽ mặt bôi hề nhảy nhót hú hét leo cột mỡ thành ra biểu diễn”. Nhân vật Bà mẹ được phóng đại ở cái dâm và tham, “ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén được". Qua năm lần đò, bắt đầu các cuộc phiêu lưu tình ái bằng câu cửa miệng: “Về làm gì, ở lại đây ngủ cho vui”, bám riết, lùng sục kẻ được yêu nếu hắn ta tìm cách bỏ chạy và mỗi lần bước xuống đò là được thêm một cái nhà. Câu chuyện còn có hai ông giáo sư kiến thức “mãi mãi dừng lại ở trình độ cử nhân bổ túc công nông”. Giáo Sư Một tên Xí nổi danh là nhà văn hóa lớn, về hưu vẫn đi xe con của viện, “ngồi vào xe là tiểu tiện ra ghế êm”, trong hội nghị quốc tế không được mời tham luận vẫn lò dò dép lê lên phát biểu quá thời lượng, tranh giờ của cả một phó thủ tướng Châu Âu, “vục đầu vào ăn” trong bữa tiệc đứng, sở thích đặc biệt là “đái bậy” vào chân nhóm tượng đài công nông khiến dân phường phải “viết thư phàn nàn lên báo thủ đô” và tổ chức bắt quả tang lập biên bản. Giáo Sư Hai tên Khỏa - tiến sĩ viện trưởng, vốn là một kĩ sư hóa chất “sang quản lí khoa học xã hội”, “chập dây thần kinh cười”, hễ cười là không tắt được. Giáo sư sử học “nghiên cứu viết sách giảng dạy lịch sử nước Mĩ và lịch sử Ai Cập là những nơi ông chưa bao giờ đặt chân tới. Thứ ngôn ngữ tệ hại của những vùng đất ấy ông cũng không sử dụng được”, tranh thủ ăn cắp vặt trong các bữa tiệc… (Phòng khách). Kiểu nhân vật nghịch dị do vênh lệch giữa “vai xã hội” và “vai tính cách” này rất phổ biến trong tác phẩm Hồ Anh Thái...
 

"Cảnh Trà - Nhà thơ suốt đời sống miền biên viễn"

16/01/2022 lúc 21:41






K





hoá V Trường bồi dưỡng của Hội nhà văn tổ chức ở Quảng Bá, Hà Nội từ mùa hè năm 1972, có gần 40 nhà văn trẻ từ nhiều tỉnh, thành phố về theo học. Đã được hơn một tháng, hôm ấy chúng tôi được nghe nhà văn Nguyên Hồng giảng trên lớp thì có một học viên nữa xin vào lớp. Anh người thấp đậm, quần áo lấm bụi đường vai đeo chiếc túi dết. Đó là nhà thơ trẻ Cảnh Trà, công tác ở đặc khu Vĩnh Linh. Phụ trách khóa bồi dưỡng là nhà văn Nguyên Hồng và nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Lớp học tạm dừng vài phút, hai ông tiếp nhận Cảnh Trà, và cũng có hỏi anh giấy giới thiệu của địa phương cùng lý do đến học muộn. Cảnh Trà thưa, anh phải đi bộ từ Vĩnh Linh ra, lại đúng thời kỳ không lực Mỹ tăng cường đánh phá dữ dội hơn trước nhiều lần, đến mức máy bay B52 ném bom rải thảm ra cả vùng Hàm Rồng, Thanh Hóa, nhiều chặng phải vòng lên miền tây, đi theo đường chiến lược 1B, nên thời gian đi đường kéo dài thêm quá nhiều. Thay cho việc trình giấy tờ, Cảnh Trà trật túi dết khỏi vai, vạch áo cho lộ bờ vai đỏ tướp máu do quai túi nghiến nhiều ngày. Và không chỉ nhà văn Nguyên Hồng, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh mà tất cả chúng tôi ở lớp bồi dưỡng viết văn trẻ hôm đó, đã ghi nhận bờ vai bị quai túi nghiến nhiều ngày là lý do chính đáng cho việc anh tới lớp muộn… Đã hơn ba mươi lăm năm qua, đến nay, suy ngẫm để viết về đời và thơ Cảnh Trà, chúng tôi bỗng nhớ lại cái buổi đầu tiên gặp anh ở Quảng Bá mùa hè năm 1972 ấy. Một Cảnh Trà chân chất và nhiều khổ nhọc.
Cảnh Trà sinh năm 1937 tại quê hương Nam Hoành, Nam Đàn, Nghệ An. Năm 16 tuổi anh vào bộ đội chống Pháp, chiến đấu mấy năm liền trên chiến trường Bình Trị Thiên. Thời gian ở bộ đội, Cảnh Trà đã hay làm ca dao, hò vè, thứ ca dao, hò vè đầm đậm và chất phác của miền Trung. Sau đó, anh làm thơ cổ động bộ đội, nhân dân những nơi đơn vị đóng quân. Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, có một chặng ngắn xuất hiện những bài thơ trên báo tường của các đơn vị bộ đội những năm cuối cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp và những năm đầu hòa bình lập lại. Một số sách báo có ghi nhận phong trào này, gọi là Thơ đại đội. Từ phong trào đó, Cảnh Trà được chọn về làm công tác văn hóa thông tin của đặc khu Vĩnh Linh, năm 1960. Nửa nước phía Bắc tạm thời có cuộc sống hòa bình vài năm, nhưng duy nhất ở miền Bắc, Vĩnh Linh bên bờ dòng sông Bến Hải giới tuyến, là điểm nóng bỏng nhất trên nước Việt Nam ta. Để sống được nơi đây, ngoài lòng dũng cảm, người ta phải thật sự tin yêu cuộc đời, lòng tin yêu đó thể hiện rất cụ thể qua tình thương yêu, đùm bọc nhau, thương yêu làng quê, xóm mạc ruộng vườn… Với Cảnh Trà, lòng tin yêu cuộc đời còn được anh thể hiện qua những bài thơ. Anh là một trong những nhà thơ xuất hiện giai đoạn đầu thời chống Mỹ cứu nước. Thời ấy, không ai nói đến Vĩnh Linh mà không nói đến đạn bom kẻ thù dội xuống, đủ các loại bom. Bình quân mỗi đầu người phải chịu ba, bốn trăm quả bom! Thơ Cảnh Trà, vừa tỏ rõ ý chí con người Vĩnh Linh, vừa là sự kìm nén kín đáo trong lòng nỗi gian khổ vô bờ bến:
Trên đất này
Chờ bom dứt là điều mơ mộng
Tất cả đều là trong báo động
Tất cả như là trong báo yên…
Kẻ thù đã bằng mọi cách, muốn xóa trắng Vĩnh Linh đi. Vĩnh Linh phải bám trụ, để sống và đánh lại. Con người phải sống, và còn phải cho đất giới tuyến này có sự sống. Chẳng hạn đồng ruộng phải sống được, phải đơm bông kết hạt. Ruộng lúa chín rục bên một chiếc cầu tre, mà bom vẫn không hề ngớt. Cảnh huống cuộc sống này thành thơ Cảnh Trà: Đêm đêm lòng người đau nhức/ Thương hạt lúa mình giặc giết bên cầu tre… tình thương ấy khiến năm anh, chị dân quân đêm khuya đi gặt lúa dưới ánh sao. Đêm ấy, bom đạn giặc giết cả năm anh, chị. Nhưng đêm sau năm dân quân khác lại: Tay vằng tay hái/ Băng ánh sao khuya/ Xuống chân ruộng bên cầu tre gặt dở… Đó là hình ảnh chân thực, cụ thể về con người trong cuộc giành giật vô cùng quyết liệt, để được sống; và nó chất chứa sự hy sinh vô tận của người Việt Nam ta cho chủ quyền của một phần đất nước nhiều máu lửa và đau thương. Không đâu như Vĩnh Linh vẻ đẹp của đất trời, con người được tiếp nhận một cách hiếm hoi, như phải gạn lọc từ rất nhiều cực nhọc mới có được. Khi ban đêm, trên một lối mòn: Trăng đã lên đèn trong từng bụi cỏ. Và khi thấy một bầy chim sẻ trên quê hương quá nhiều khói lửa:...
 
 
 

"Cao Hạnh - Gửi thương nhớ vào giấc mơ"

16/01/2022 lúc 21:41












Tôi bước vào văn chương một cách tự nhiên như định mệnh’’ Nhà văn Cao Hạnh đã từng tâm sự như thế. Trong suốt thời gian dài cầm bút Cao Hạnh viết rất nhiều thể loại khác nhau và sớm có được những tác phẩm thành công đặt dấu ấn riêng trên mỗi chặng đường sáng tác, hòa chung vào dòng chảy văn học nước nhà thời kì đổi mới.
Với Cao Hạnh cuộc sống và sự chiêm nghiệm những khoảnh khắc con người đang trải qua nỗi đau, hạnh phúc, nụ cười đã trở thành mạch nguồn cho quá trình sáng tạo. Đồng thời, thiên nhiên cảnh sắc đất trời cũng là động lực thôi thúc nhà thơ đi và viết. Những yếu tố ấy như vị xúc tác hòa trộn cho thơ  Cao Hạnh bay bổng tuôn trào. Đặc biệt khi đọc những bài thơ trong tập “Giấc mơ màu cỏ’’  bắt gặp lời lẽ giản dị, chân thành tạo nên sợi chỉ xuyên suốt các sáng tác của nhà thơ. Nó góp phần đưa tác giả và người đọc xích lại gần nhau hơn. Họ cảm nhận những gì tác giả viết đang hiện hữu bên cạnh họ mỗi ngày. Bởi vì nhà thơ viết ra với chính những xúc cảm của mình mà không quá huyễn hoặc hay lý tưởng. Tất cả đều gần gũi thiết tha. Giấc mơ màu cỏ là những cung bậc tình cảm khác nhau. Nó in dấu tuổi thơ, kỉ niệm, tình yêu, quê hương, những triết lý về cuộc sống cùng đan quyện lắng lại trong tim thi nhân đến khi cảm xúc ùa về sẽ thăng hoa rung bật thành thơ. Dẫu rằng, những gì tác giả viết ra có thể chỉ tồn tại trong mơ nhưng giấc mơ ấy đầy thơ và nhạc tươi mát hiền hòa như màu xanh hoa cỏ. Vì Cao Hạnh sống và mong muốn cống hiến hết mình cho văn chương, dù cho:
Cuộc đời lắm nỗi đa mang
Ta như chiếc lá nửa vàng nửa xanh
Nửa vàng thì cứ vàng dần
Chút xanh còn lại vẫn xanh hết mình
                                                  ( Ngẫm )
Bên trong nhà thơ luôn  đau đáu một nỗi niềm cho nghiệp viết:
Thơ hay tự nó sống .Thơ dở tự nó chết
Riêng nhà thơ dở sống dở chết
                      (Khai từ cho tập thơ)
Khi một tác phẩm văn chương ra đời sẽ tự tách ra khỏi chủ thể sáng tạo. Người phán quyết cuối cùng cho sự tồn tại một tác phẩm chính ở người đọc chứ không ở tác giả của nó. Đồng thời, cùng với sự sàng lọc giá trị tác phẩm qua thời gian. Vì vậy người viết phải có tâm, không nguôi trăn trở trước hiện thực muôn màu. Và càng cần hơn trong xã hội ngày nay vốn  có quá nhiều biến động, đổi thay. Nó thôi thúc người nghệ sĩ phải suy nghiệm, phải Tự vấn chính mình để từ đó có thái độ sống đúng mực trước cuộc đời. Xứng đáng là nguời cầm bút của thời đại:
Tôi là ai?
Mỗi lần tự vấn
Nỗi dày vò xoáy riết tâm tư
....................
Tôi  là ai?
Một nửa tôi bay ở phía chân trời
Một nửa tôi neo vào trong cát bụi
Hai nửa cuộc đời nhập lại
Để thành tôi trong một kiếp CON - NGƯỜI .
                                         (Tự vấn )
Trước sự phân vân ấy nhà thơ lãng du tìm kiếm trên mọi nẻo đường mình đến và đặt chân qua. Nhưng chỉ thấy:
Trên trời cánh chim đơn lẻ
Biết bầy hạ cánh về đâu
Con cá say đời đớp mảnh trăng ngâu
Ngọn sóng mang giấc mơ ném vào bờ cạn
                                                              ( Đi )...
 
 
 
 
 
 

Hiện thực chiến tranh và số phận người lính trong truyện ngắn của Văn Xương

16/01/2022 lúc 21:41






T





rở về từ chiến trường biên giới phía Bắc, Văn Xương làm cán bộ dân sự, vì thế anh rất có lợi thế là được đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều ngành, nhiều tầng lớp nên anh hiểu sâu sắc đời sống, tâm tư người lao động, đặc biệt là những người lính trở về sau chiến tranh. Bên cạnh đó, kí ức, di họa của chiến tranh luôn ám ảnh không nguôi, lèn chặt trong anh. Sống trên mảnh đất một thời máu lửa, khốc liệt nhất của đất nước, và những gì anh được kinh trải đã thôi thúc anh cầm bút. Cũng như nhiều nhà văn khác, trước tiên anh dè dặt thử bút bằng những truyện ngắn như Một thời kỷ niệm, Hoa gạo đỏ bên sông, Huyền thoại một con đường, Nơi gặp gỡ của số phận.. sau này anh tập hợp lại thành tập truyện ngắn Hoa gạo đỏ bên sông (NXB Hội Nhà văn, 2006). Những truyện ngắn này gây sự chú ý đến độc giả, được bạn đọc quan tâm, bởi sự giàu có về vốn sống, sự trải nghiệm, những hiểu biết cặn kẽ, am tường về con người, vùng đất, chiến trường và người lính nơi mảnh đất anh sinh thành bằng giọng điệu nhẹ nhàng, chân chất và mộc mạc. Anh đã có lần tâm sự: Tập truyện ngắn Hoa gạo đỏ bên sông ra đời từ sự đòi hỏi của đời sống chiến tranh, và những hiện thực dồn nén choán chật tâm hồn buộc phải tìm cách viết ra những trang văn nóng hổi về cuộc chiến, về người lính.
 Hoà tấu cùng nguồn mạch ấy, Văn Xương tiếp tục ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Hồn trầm. Qua đó, chứng tỏ được trường lực thẩm mĩ của mình. Với vốn sống dồi dào, bút lực mạnh mẽ đã thể hiện được phẩm chất, “nội lực” của người viết truyện ngắn, biết tự làm chủ vốn liếng của mình và khai thác, chọn lọc, đầu tư một cách đúng mức trong việc thể hiện hiện thực chiến tranh và người lính. Văn Xương từng thể hiện quan niệm của mình thông qua lời kể chuyện của nhân vật trung tâm trong Hoài vọng: “Đi tìm một ý tưởng mới lạ, sáng tạo để tránh những lối mòn cũ; dám vượt qua những vùng nhạy cảm, cố hữu để nhìn nhận một cách tường tận, toàn diện, chân thực về chiến tranh?!”.
            Như thế trên hành trình sáng tạo của Văn xương, đề tài chiến tranh và người lính được anh dành sự quan tâm đặc biệt. Thực ra, đề tài chiến tranh được các nhà truyện ngắn đương đại quan tâm. Chiến tranh luôn gắn liền với số phận đau thương của dân tộc, là nơi gửi gắm tâm sự của những người cầm súng đã từng chứng kiến bao sự hi sinh của đồng đội, đồng bào, và cũng là nguồn cho thế hệ sau tiếp tục khai vỡ. Chiến tranh như một nỗi ám ảnh, một vết thương rỉ máu, khó lành, và thế giới hiện đại vẫn đang từng giờ, từng ngày nóng bỏng cuộc chiến giữa các sắc tộc. Với tài năng, bản lĩnh và cá tính sáng tạo Văn Xương đã tự xây dựng cho mình một phong cách nghệ thuật với những nét độc đáo riêng trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh và số phận người lính.
Là một nhà văn trong cuộc, một nhân chứng bước ra từ cuộc chiến, Văn Xương nhìn chiến tranh không chỉ bằng những tấm huy chương, những bản anh hùng ca... Chiến tranh hiện lên với tất cả sự tàn khốc, sự bi thảm, sự ghê rợn, hãi hùng... nữa. Nó không chỉ bi tráng, bi hùng, mà còn là bi thảm... Qua truyện ngắn, Văn Xương đã tái hiện những gì khốc liệt nhất, đau thương, tối tăm nhất của chiến tranh đều được phơi bày một cách trầm trụi, thẳng thắn và nhiều gai góc.
Với đời người, tuổi trẻ mãi là quá khứ, hoài niệm đẹp. Trong hoàn cảnh có chiến tranh, thật tự nhiên và không suy tính, những chàng trai, cô gái thanh xuân ở những làng quê như Long (Hoài vọng) Minh (Chuyện già bản Tà Thiêng), Vinh (Cây Lộc Vừng), Tùng (Lung linh sóng nước), Dũng(Đối mặt với thời gian)... tình nguyện lên đường nhập ngũ. Nhưng chiến tranh có sự nghiệt ngã riêng của nó. Những người lính trực tiếp đối diện với nó trở thành nạn nhân đầu tiên. Nó cuốn theo hàng vạn sinh linh. Chiến tranh hiện hình qua cái chết những người lính trẻ đầy thương tâm: “Nhiều người bị ném lên khung trung, xé tướp ra từng mảnh, bám đầy cỏ rác, bụi bặm, vùi dập vào những đống đất, đá, gạch vụn; nhiều người bị nướng cháy nham nhở dưới chiến hào, công sự hay quằn qoại chết vì trúng những mảnh bom, pháo”, “Một số người tử trận, thi thể đầm đìa máu. Tiếng kêu la quằn lại, đau đớn của người bị thương”. Nhiều khi cả trung đoàn, tiểu đội chỉ sót lại một vài người: “Tiểu đội Minh bị rơi vào ổ phục kích của địch. Sáu người hi sinh. Minh và năm người còn lại sa vào tay địch. Chúng đánh đập hết sức giả man”...
 
 
 

Quảng Trị và tôi

16/01/2022 lúc 21:41






N





ăm nay, tròn 35 năm ngày thống nhất đất nước. Song với những người lính sinh viên và giáo viên đại học nhập ngũ ngày 06/9/1971, thì niềm vui giải phóng đã đến từ tháng Tư năm 1972 ở Quảng Trị. Họ người thì là lính chiến đấu ở sư đoàn 325. Người thì ở những đơn vị hậu cần, thông tin, công binh phục vụ chiến dịch. Vui nhất là họ đã tụ quần với nhau những ngày đầu giải phóng Quảng Trị. Lúc ấy, tôi bắt đầu tập làm thơ. Bây giờ giở lại cuốn sổ tay ngày đó, mới nhớ rằng mình đã từng làm một bài thơ ngày Quảng Trị giải phóng. Bài thơ tên là: “Ngọn lửa mùa hè”. Bài thơ của một người mới tập làm thơ thật nhiều “lỗi kỹ thuật” nó thực sự chỉ là một trang nhật ký bằng thơ giữa không gian nồng khét khói súng.
NGỌN LỬA MÙA HÈ
 
Anh đi giữa trưa hè thị xã
Nắng biển mặn mà rộn rã vây quanh
Màu áo xanh hòa lẫn sắc lá xanh
Đường phố ngập tràn màu xanh bóng nắng
 
Quê hương ơi! Bao tháng ngày cay đắng
26 năm đã tìm được một ngày
Anh lại trở về từ một buổi chia tay
Chẳng nói nên lời, lệ cười trên mí mắt
 
Mới hôm nao phố phường còn xám ngắt
Đời ngậm ngùi, nhức nhói vết giày đinh
Đạp lên những chi khu, căn cứ địch
Anh mang nắng về gọi đất mẹ hồi sinh
Nắng trưa hè ngời thép súng lung linh
Nắng tỏa từ ngực anh ban trưa thêm sắc lửa
Nắng tìm về tận ngõ sâu, phố đổ
Giữa bộn bề anh có thấy tương lai
 
Lửa bén bùng đỏ thắm sắc cờ bay
Từ Cổ Thành lửa chia về mọi ngả
Mang hồn lửa cầu vồng từ ngọn súng tay ai
Lửa học trò phượng nghiêng nghiêng cửa sổ
 
Lửa tình yêu nhóm nhen từ lửa hoa
Cùng lửa cờ múa reo cùng lửa nắng
Bừng cháy giữa miền đất đại chiến thắng
Ngọn lửa mùa hè ấp ủ tự bao năm
 
Và trưa nay đang cùng anh hành quân…
Bài thơ đầy lạc quan. Nhưng sự thực của “Mùa hè đỏ lửa” diễn ra sau đó khốc liệt đến nỗi không thể tưởng tượng nổi. Quảng Trị thành nơi tranh chấp đẫm máu giữa hai bên liên quan tới Hội Nghị Paris đang đi tới quyết định ngừng bắn, lập lại hòa bình tại Việt Nam. Và cuối cùng thì sông Thạch Hãn trở thành giới tuyến tạm thời từ năm 1972 đến năm 1975.
Sau ngày thống nhất đất nước, đầu năm 1977, đơn vị tôi được cử ra Quảng Trị để xây dựng đường dây quân sự nối thông từ Quảng Bình đến Phú Bài (Huế). Những ngày mưa ẩm ướt của mùa xuân 1977, tôi mới có dịp chứng kiến lại những tàn phá, đổ nát của “mùa hè đỏ lửa” 1972 mà khi ấy, hầu như vẫn còn nguyên hiện trạng giữa một cuộc sống mới bắt đầu nhú mầm hồi sinh. Những chiều lang thang bên bờ sông Thạch Hãn thật buồn. Luôn luôn có cảm giác bước chân mình đang chạm vào anh linh những người đã hy sinh ở Cổ Thành nhiều đến mức không sao đếm xiết. Vậy là bài thơ “Nhớ nắng” đã từng được in trên tạp chí “Văn nghệ Bình - Trị - Thiên”...
 
 
 

Ký ức nằm vùng

16/01/2022 lúc 21:41






Ô





ng năm nay vào tuổi tám mươi. Tên ông là Lê Văn Hoan. Mười sáu tuổi vào dân quân, rồi bộ đội. Đảng viên khi chưa đủ tuổi 18. Hoạt động ở vùng tạm bị chiếm (quê ông, tỉnh Quảng Trị, bị Pháp chiếm đóng từ đầu năm 1947). Tháng 7 năm 1954, thi hành Hiệp định Genève, bộ đội, cán bộ ta ở phía Nam vĩ tuyến 17 tập kết ra Bắc. Ông được phân công ở lại, “sinh sống làm ăn như mọi người dân bình thường”. Và ông đã ở lại, đã công tác suốt ba mươi năm, từ 1954 cho đến khi nước nhà thống nhất. Ba mươi năm bám trụ dải đất hẹp miền Trung, trừ mấy lần được cấp trên đưa ra miền Bắc học tập, chữa bệnh ngắn hạn.
Quá nhiều người ở làng quê ông biết mặt, thuộc họ tên, gia đình tung tích Việt cộng Lê Văn Hoan, tên thật là Lê Đình Mỵ. Ông bị đối phương săn lùng dữ dội, ngay từ đợt tố cộng đợt 1. Tỉnh Quảng Trị, phần từ phía Nam sông Bến Hải trở vào đến sông Mỹ Chánh, năm 1954 có 8400 đảng viên ở lại sinh sống với gia đình. Sau hai năm, đến cuối 1956 còn lại 506 người, kể cả đồng bằng và vùng núi. 7900 đồng chí đã hy sinh hoặc bị bị bắt bớ, đày ải vào các nhà tù. Năm 1958, Lê Văn Hoan được điều về huyện Hải Lăng làm Phó Bí thư, thì cơ quan huyện ủy lúc này chỉ còn lại bí thư và mỗi một huyện ủy viên.
Cộng thêm bom đạn chiến tranh ở mặt đất và từ trên không, kể cả bom ném từ máy bay B52 của Mỹ. Tháng 8 năm 1965, tỉnh Quảng Trị họp đại hội tại Ba Lòng, chiến khu cũ thời chống Pháp. Ngày 13-8-1965, Mỹ cho máy bay B52 ném bom rải thảm. Bom rơi xuống sông, “cá chết trắng cả khúc sông, trôi theo dòng về xuôi” (tr. 190, Hồi ký Đất quê hương, Nxb Thuận Hóa 2009). Ông được bầu vào tỉnh ủy, trở về địa bàn của mình, làm Bí thư thị xã.
Lê Văn Hoan viết: “Sống và chết, chết và sống đã trở thành quen thuộc với chúng tôi. Chúng tôi xem thường cái chết và đã quên nó đi, bất cần nghĩ đến. Sống thì công tác, hoạt động, và chết cũng vậy thôi, đồng đội chết nhiều rồi, đồng chí đồng bào đã chết quá nhiều rồi. Bây giờ đến lượt anh, có sao đâu. Tất nhiên, mỗi lần có đồng đội hy sinh, cũng làm cho bản thân tôi chùng lại, nỗi buồn như đám mây đen qua bầu trời. Nhưng rồi công việc và cuộc sống lại cuốn hút đi…”.
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, may mắn sao ông vẫn lành lặn cho đến ngày hòa bình. Ông bảo tại số mình gặp may nhiều lần “trúng số độc đắc”, thoát chết gang tấc trong khi đồng đội hy sinh cùng lúc. Tuy nhiên, cái bí quyết giúp ông tồn tại là bám chắc vào dân. Ông khẳng định: Sống trong và hoạt động trong lòng địch, phải bám vào dân, càng ở sát nơi trọng yếu của địch, chúng càng ít ngờ, ta càng có nhiều cơ may không bị lộ, thoát chết để làm việc. Đó là bài học sống còn của Lê Văn Hoan.
Cuốn Hồi ký này không nhằm kể lể công lao, những đóng góp đương nhiên không đến nỗi quá nhỏ bé của một cán bộ suốt đời lăn lộn với phong trào. Nó chủ yếu tôn vinh và tạ ơn sâu của đồng bào, liệt sĩ ân nhân đã cưu mang đùm bọc cán bộ, “cảm ơn bạn hữu, đồng đội đã gánh chịu hy sinh mất mát cho tôi được sống đến ngày hôm nay” – ông viết từ những dòng đầu. Và quả là ông không hề quên một ai trong tổng số 69 gia đình cơ sở đã nuôi sống và tận tình giúp đỡ ông trong 30 năm. Họ mở rộng vòng tay cưu mang cán bộ trong khi cầm chắc rồi mình sẽ mang tai họa, gánh chịu tra tấn, tù đày, tan cửa nát nhà, thậm chí cái chết nếu chẳng may bị lộ.
Tác giả rành rọt kể nhiều kỷ niệm. Ông nhớ kỹ, bởi ông không quên ơn ai. Sau ngày thắng lợi, ông nhiều lần tìm về chốn cũ thăm người còn, thắp nén hương tưởng người quá cố. “Đó là gia đình bà Trần Thùy, gọi là Dật ở thôn Đại Nại, ngay từ năm 1954, hiệp định ký chưa ráo mực, kẻ thù đã trở mặt phá hoại. Tôi bị săn lùng. Gia đình bác Dật đã mở rộng tấm lòng đón tôi, dành cho tôi những gì quý báu nhất từ lậm (lẫm) lúa, cái sạp đựng đồ đạc… Bác đã phá cái lậm, làm thành hai ngăn, cho tôi có nơi ở an toàn. Đâu chỉ đơn thuần trốn tránh, mà đi về thất thường, cơm ăn nước uống và trăm sự phiền hà…” (tr. 139)...
 
 
 

« 4647484950 »

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

31/03

25° - 27°

Mưa

01/04

24° - 26°

Mưa

02/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground