T |
hời tôi còn bé chắc chắn cũng như bao đứa trẻ khác, rất tin tưởng vào mẹ. Mẹ không chỉ là khối tình vĩ đại tôi rất thương yêu, kính trọng. Mẹ còn là niềm tin có thể chở che tôi trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ thế lực nào. Bởi thế có ai đe nẹt, tôi đều dọa họ “Cháu sẽ mách mẹ cho mà coi’.
Tôi đâu biết rằng: Mẹ tôi là một người đàn bà góa với một đàn con thơ dại quá nhỏ yếu và mong manh trong cuộc đời đầy rẫy áp bức cường bạo bây giờ.
Một lần mẹ tôi lên chợ Đông hà bị hai vợ chồng hung hãn, là mặt xông vào đấm đạp chỉ vì theo họ chửi: Mẹ tôi đã mua tranh mớ cá chợ mai để bán chợ chiệu. Một lần khác đang giữa buổi trưa chợ bỗng nghe nhiều người đàn bà cùng hét: Tây! Tây! Mẹ tôi dắt tôi chạy cuống cuồng giữa những người náo loạn. Một lũ Tây đen thua trận trở về, uống rượu say, xô vào chợ giằng xé, hãm hiếp phụ nữ. Những lần như vậy, tôi chỉ biết nhìn mẹ quằn quai mà kêu khóc thảm thiết. Tôi bị xốc tới mức mỗi lần mẹ đi xa là vô cùng lo sợ. Đó là lý do tôi luồn gào lăn đòi đi theo. Những sự việc như vậy hằng sâu trong thần kinh của tôi đến mức hơn nửa thế kỷ trôi qua mà nhớ rõ như in như mới diễn ra sáng nay. Từ đó, tôi luôn mơ ước có một người nào, một lực lượng nào hùng mạnh bảo vệ được những người như mẹ tôi.
- “Có con nờ, người đó là Bác Hồ!”
Mẹ chỉ nói với tôi một câu ngắn như vậy nhưng trong tôi bừng lên một mơ ước lớn, bởi tôi luôn mong muốn đuổi được giặc Pháp đi, trừng trị được kẻ ác để mẹ tôi được sống yên thân. Từ đó tôi luôn chú ý đến lời người lớn nói và thi thoảng nghe họ thì thào về Bác Hồ một cách bí mật và kính trọng.
Trong đầu óc trẻ con của tôi bừng lên nhiều tưởng tượng phong phú về Bác. Có lúc tôi tưởng tượng Bác là một ông tiên hóa phép được. Có lúc lại tưởng tượng Bác như một lực sĩ khổng lồ bọn quỷ sứ nhìn thấy phải sợ. “Không phải rứa mô con – Mẹ tôi lại nói – Bác Hồ cũng bình thường như mọi người nhưng tài năng to, trí tuệ cao.” Tôi lại càng thấy bí hiểm và mong một ngày được gặp Bác.
* * *
Sau những ngày đầu hòa bình chống Pháp, mẹ tôi đưa chúng tôi vượt tuyến ra Bác. Người lớn nói với nhau rằng: Ngoài đó không có lính Pháp, không có cường hào áp bức, mọi người được sống tự do. Trong cái đêm ra đi đó tôi cùng sung sướng với người lớn và có một mong ước được gặp Bác Hồ để thảo lòng kính yêu và thỏa trí tưởng tượng.
Chỉ mấy này sau khi đến đất Bắc, một buổi sáng ngủ dậy O tôi khoe: - Tối qua đi xem phim ở Vĩnh Quang, trong phim có Bác Hồ. O được nhìn thấy Bác, được nghe Bác nói. O kể vô tư nhưng tôi bị hẫng hutuj và thất vọng lớn. Đến bây giờ tôi chưa một lần được xem phim, đặc biệt là chưa một lần nhìn thấy Bác, nghe Bác nói. Tôi khóc dỗi O tôi, suốt ngày nhịn ăn để phản đối. Rất may chiều đó O tôi nựng tôi: “Tối nay có chiếu phim ở Hiền Lương”. Tôi mừng rỡ chờ đợi, thời gian trôi chậm chưa từng chậm hơn, mắt tôi cứ đăm đắm nhìn lên phá Hiền Lương. Tôi ăn cơm sớm, rủ các bạn học sinh cùng lớp vỡ lòng theo người lớn đi bộ lên Hiền Lương. Từ Vĩnh Giang lên Hiền Lương theo mép bờ sông xa gần sáu cây số. Vậy mà tôi và cả lũ nhỏ bạn bè không đứa nào kểu mỏi chân, cứ bước phăm phăm. Bãi chiếu phim là một thửa ruộng vừa gặp đang thơm mùi toóc rạ. Tôi và lũ nhỏ bạn cứ lăng xăng vây quanh xem các chủ chôn cọc dựng màn vải trẳng, xem các chú lắp máy, quay đảo các cuộn phim. Chúng tôi hỏi dò xem: - Tối nay có chiều phim về Bác Hồ không? Nghe các chú nói: - Có! Chúng tôi mới thực sử yên tâm.
Người đến xem rất đông, ngồi bệt trên các bụi toóc. Chỉ có một đơn vị công an vũ trang là ngồi trên những đôi dép cao su, súng dựa vào vai thẳng hàng, mũi súng chĩa lên trời.
Một ông già gầy gầy xuất hiện trên phim. Tôi chưa kịp nghe người thuyết minh nói đó là ai bỗng có tiếng reo: - Bác Hồ! Tất cả bãi phim rùng rùng đứng dậy, ào ào vỗ tay, đồng thanh hô vang, náo nhiệt:
“- Bác Hồ muôn năm! Bác Hồ muôn năm!”
Khi Bác giơ cao chiếc mũ vẫy chúng tôi, tất cả lại vỗ tay râm rập, lại hô vang: “- Bác Hồ muôn năm! Bác Hồ muôn năm!”
Người tao ào tới phía màn ảnh cho gần Bác. Nhiều người nhón cao chân, giơ tay muốn với tà áo Bác. Nhiều người trong số họ lần đầu tiên được xem nghệ thuật phim ảnh kỳ diệu, lần đầu tiên thấy Bác nên xúc cảm rất mạnh. Cứ tưởng như Bác hiển hiện trở về thăm con cháu, thăm đồng chí đồng bào.
Cảnh phim ây đi qua, nhiều người vây quanh máy chiếu đề nghị chiếu lại cảnh đó. Đội chiến bóng lưu động số 13 vui vẻ và sung sướng tạm ngừng buổi chiếu, quay đảo phim, chiếu lại cảnh đó. Bác Hồ lại xuất hiện giữa những tràng vỗ tay và những tiếng hô muôn năm dậy trời.
Tôi nghĩ, có lẽ không quá, đó là một đêm chiếu phim thành công nhất thế giới của những người làm công việc chiếu phim. Có nơi nào khán giả nhất tề đề nghị chiếu lại một cảnh phim vừa chiếu? Có lãnh tụ nào được nhân dân yêu mến đến thế? Chỉ cần sống vài phút trong không gian đó đủ hiểu cái lý khi Tố Hữu viết: “Bác bảo đi là đi/ Bác bảo thắng là thắng’
Và đến bây giờ, đội quan lên đường theo chân Bác từ gậy tầm vông và súng kíp, từ chân đất, áo vá, đầu trần đã làm nên một Điện Biên chấn động địa cầu, đã đánh bại thực dân Pháp – một cường quốc của chủ nghĩa thực dân.
Bọn nhỏ chúng tôi cùng được xem đoạn phim đó nhưng khi ra về cứ tranh nhau kể: Bác mặc bộ áo quần kaki bạc màu. Chiếc mũ cối của Bác cũng bạc màu. Bác đi một đôi dẹp cao su. Bác có bộ râu trắng như râu ông tiên. Nhưng rồi có một đứa hỏi: - Cúc áo của Bác có màu gì? Tất cả chúng tôi ngớ ra, không biết.
Lại khao khát được xem phim về Bác Hồ để nhìn thấy bác, nghe Bác nói để biết thêm chiếc cúc áo của Bác màu gì.
* * *
Theo năm tháng tôi lớn lên, được học hành dạy dỗ chu đáo nên người. Tôi có được những người thầy lớn đang tự hào nhưng Bác Hồ là người thầy vĩ đại nhất của tôi. Tôi tự hào được sống trong thời đại Hồ Chí Minh đứng như suy tư của Chế Lan Viên: Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn/ Trài cây rơi vào người ngắm quả/ Đường nhân loại đi qua rợp bóng mát xanh rờn… Tôi tự nghĩ cuộc đời mình luôn luôn có Bác cạnh bên.
Nhưng…
Ngày 3/ 9/ 1969 tôi đang năm cuối cùng của khoa văn trường Đại học sư phạm Vinh. Sáng ấy tôi đi từ Quỳnh Hồng về Quỳnh Lưu và linh cảm một điều rất khác lạ. Cả không gian như trầm xuống, lặng đi. Những người thwoj cày khắp cánh đồng đều buông trâu đứng lặng. Những người phụ nữ gọc đầu ngồi bên chân ruộng. Dưới một số gốc xà cừ ven đường quốc lộ các em nhỏ chăn trâu túm tụm nhau, khóc nức nở. Tôi hỏi chuyện gì đã xảy ra, chúng không nói được, càng khóc to hơn. Tôi nhìn lên phía trước, một ai đó đã rất nhanh treo một dãy cơ tang có dải băng đen. Tôi chạy vội về văn phòng khoa. Các bạn sinh viên và các giáo sư đã có mặt rất đông. Mắt ai cũng đỏ hoe, khuôn mặt nhòa nước mắt. Trên bàn làm việc giữa căn nhà, ảnh Bác phủ đăng ten đen. Lư hương nghi ngút khói. Bác mất tật rồi ư? Chúng tôi thương cầu mong Bác sống mãi và tưởng như đó sẽ là sự thật nhưng Bác vẫn là con Người, chịu quy luật luân hồi là có sinh, có tử. Đau thương, nặng nề trùm lên tất cả chúng tôi. Đất nước tràn đầy nước mắt. Rất kỳ lạ là trời đang sáng trưng bỗng mây đen kéo đến vàn vũ. Trời sầm sập mưa. Sau này tôi mới biết, Hà Nội ngày đó và nhiều nơi trong cả nước cũng mưa tầm rả. Nhân dân tin rằng, cái chết của Bác xúng động đến đất trời. Khắp nơi, khắp chốn hàng chục vạn lá cờ tang đã được kéo lên. Những dải tang màu đen rũ xuống, nặng lòng. Đúng như Tố Hữu viết Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa, trong bài thơ khóc Bác “Bác ơi!”.
Tôi và nhiều người nữa, trong tang thương có thêm nhiều lo lắng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang ở giai đoạn quyết luật, khốc liệt, người cầm lái vĩ đại đã ra đi. Rồi sẽ thế nào đây? Tôi càng lo hơn khi mấy ngày sau đó được tin, quân ta thất thủ ở cánh đồng Chum Xiêng Khoảng, địch đã tái chiếm.
Rất mau chóng chúng tôi được trấn an. Một đợt học tập chinh trị ngắn được tổ chức. Chúng tôi đọc Di chúc của Bác, đọc Điếu văn của BCH Trung ương Đảng, biến đau thương thành hành động cách mạng, làm theo lời Bác dạy. Tin chiến thắng từ tiền tuyến lại dồn dập bay về. Hậu phương cũng đạt nhiều thành tích lớn, Thái Bình đạt danh hiệu tình năm tấn (trên 1 héc ta – bấy giờ là năng suất cao chưa từng có). Cả miền Bác cùng một phong trào rầm rộ: Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, dồn sức cho tiền tuyến để đánh giặc cứu nước làm theo Di chúc của Bác. Thầy và trò chúng tôi phát động phong trào: Dạy tốt, học tốt để Bác được vui lòng. Kể quả là năm đó, chúng tôi tốt nghiệp và đi nhận công tác 100%
* * *
Tôi tình nguyện vào bộ đội, dược sung vào Sư đoàn 308B. Trên đường hành quân ra trận, chính trị viên Lâm kể cho tôi nghe: Đúng thời điểm Bác mất Đại đội của ông (đã tổn thất nhiều) đang luồn sát nách một căn cứ địch ở Năm Căn để thoát vòng vây. Chiếc Ra đi ô vặn nhỏ theo dõi thống cáo về sức khỏe của Bác đã báo tin đau thương. Cả đại đội khựng lại ôm mặt khóc. Một phút mặc niệm Bác được tổ chức ngày sát hàng rào bùng nhùng vòng ngoài căn cứ địch. Đó là những giây phút bi hùng của chiến trường. Những chiến sĩ của ông quấy nhiều băng ở đầu, ở tay, có chiến sĩ vết thương đang đỏ máu. Họ vừa qua một trận đánh khốc liệt đang rút về hậu cứ giữa ba bề là giặc. Một phút tưởng nhớ Bác linh thiêng. Một lời thề của người chiến sĩ quyến chiến đấu dưới ngọn cờ độc lập tự do của Bác cho đến ngày thắng lợi cuối cùng.
Chính trị viện Lâm còn cho tôi biết: Những ngày sau đó một số lá cờ tang xuất hiện trên những ngọn dừa, ngọn tràm, ngọn đước ở Năm Căn nhưng bọn cảnh sát không hung hăng lùng sục, giật xé như mọi lần. Chúng chăng ưu ái gì cộng sản nhưng với sự kiện Bác ra đi chúng hiểu nhân loại đã mất đi một vĩ nhân. Chúng vừa khâm phục vừa sợ sự phẩn nộ ghê gớm của du kích nếu động vào những lá cờ tang đó. Về sau này tôi đã nghe nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa Pháp nhận định: Chủ tịch Hồ Chí inh là vĩ nhân vĩ đại. Điều kỳ diệu của Chủ tịch không những được nhân dân nước mình kính yêu mà được toàn nhân loại kính trọng. Cả nước Pháp, nước Mỹ vốn là kẻ thù của Việt
* * *
Tháng 3/ 1975 tôi đã là cán bộ giảng dạy năm thứ 3 tại Học viện chính trị quân đội. Bấy giờ vào lăng viếng Bác khó hơn bây giờ nhiều vì lăng mở cửa cho cán bộ, bộ đội, nhân dân vào viếng Bác chưa lâu, lượng cơ quan, đơn vị đăng ký quá đông. Học việnn được bình chọn một đoàn cán bộ đầu tiên của Học viện vào viếng Bác. Thành phần gồm nhiều tướng lĩnh, sĩ quan học viện, chiến sĩ, có già, có trẻ, có nữ, có nam. Rất may tôi được trúng là giáo viên trẻ. Chúng tôi như trẻ con mừng đến tíu tít. Tôi giạt là quân phục, đánh bóng dày, chọn tất mới. Thiếu tướng Hoàng Minh Thi súng sính trong bộ đại lễ hỏi tôi: Mình mặc bộ này được chứ? Tôi nói: - Rất đẹp và rất ơi. Ông sương lắm. Tôi nhăn nhó: Không kiếm được chiếc mũ lưỡi trai. Thiếu tướng an ủi: Không sao, cảnh vệ không cho đội mũ vào lăng đâu.
Vừa đến lửa lăng Bác, nhìn lan can lên sàn thượng của lăng lòng tôi rộn ràng, vui sướng như xa Cha lâu năm sắp gặp lại. Tôi biết rằng xung quanh tôi mọi người cũng có tình cảm như vậy. Khuôn mặt ai cũng xúc đồng mong chờ, cũng trang nghiêm kỳ lạ.
Bác đây rồi trong quan tài kính màu trắng, bình thản trong giấc ngủ ngàn năm. Bác vẫn mặc chiếc áo kaki bạc màu như đêm đầu tiên tôi nhìn thấy Bác trong phim ở Hiền Lương. Đôi dép cao su để ngày ngắn dưới chân. Một chiếc chăn vải mỏng đắp qua người. Vĩnh hằng Bác là con người gian dị, trong lòng tôi rộn lên vô vàn xúc cảm. Thế là ước mơ hàng chục năm nay đã thành hiện thực: - Con đã về với Bác, Bác ơi!. Đoàn người chầm chậm vùng qua chân Bác, những tướng lĩnh và sĩ quan ngực đầy ắp huân chương lấp lánh, những con người được tôi luyện qua chiến tranh trở thành sắt đá mà vẫn rơi nước mắt trước Cha già kính yêu. Họ lặng lẽ chấm nước mắt. Đến với Bác tôi có một cảm nhận đúng như lời thơ Tô Hữu: Không gì vinh bằng chiến đấu dưới cờ/ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
* * *
Lạ thay một lần được về thăm Bác ta thấy mình được lớn lên, nhận thức, tư tưởng rõ ràng và trong sáng hơn. Khi ta gặp khó khăn, ta bỗng nhớ lời Bác: Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên…
Khi cuộc sống hội nhập có nhiều xao động, ta nhớ lời Bác:
Trung với nước, hiếu với dân.
Khi có kẻ cậy nhiều tiền lắm súng lăm le lấn đất, lấn biển, ta nhớ lời Bác:
Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải ra sức giữ nước.
L.V.T