Quê ngoại - làng Hàm Hòa, xã Vĩnh Long là nơi tôi gắn bó từ tấm bé cho đến tận bây giờ. Năm tháng vật đổi sao dời với bao biến thiên thời cuộc, giờ làng xưa không còn, làng đã lên phố, rồi đổi tên, chuyển dời, cắt - nhập. Mảnh hồn làng tưởng vô tri mà lại lận đận như một kiếp người nay rày mai đó, một kiếp tha hương. Ấy vậy mà mỗi lần nhắc đến quê, tôi lại cứ bấu víu vào đây, nhặt nhạnh chắp nối từng mảng ký ức thành một trời kỷ niệm, và thấy tháng ngày mộc mạc xa xưa như một vườn cây trái mát rượi, quả ngọt sum suê.
Quê hương bản quán của tôi là rẻo đất nằm bên dòng Kiến Giang thơ mộng tưới tắm cho một Lệ Thủy ân tình. Nhưng dòng nước thân thương chảy trong tâm trí tôi lại là con sông đào Hồ Xá bé xíu, mảnh mai như chiếc lược ngà vắt qua những rặng tre um tùm già cỗi, trôi theo rìa làng qua các thôn Cầu Điện, Nhà Tài, Xóm Mội, Thượng Hòa, đổ về mép chợ Chiều, chợ Mai, chợ Xép, thong thả trôi qua phố phường Hồ Xá bộn bề, rồi về hòa với dòng Sa Lung ở ngã ba Châu Thị… Kiểu người “hai quê”, “quê giữa hai sông” như tôi, luôn lấn cấn những buồn vui và lẩn thẩn với một miền ký ức thương nhớ đan xen, suy cho cùng cũng không phải là nhiều.
Làng quê Vĩnh Long hôm nay - Ảnh: Trung Thành
Những thôn xóm làng quê tôi lan man trong khúc dạo đầu ấy đều thuộc về địa danh “xã Vĩnh Long” thân thương, quê ngoại yêu dấu của tôi, một trong 18 đơn vị hành chính của huyện Vĩnh Linh lúc này. Đây là miền quê có lịch sử hình thành lâu đời nhất xứ Vĩnh, từ thời Hậu Lê, tận sáu bảy trăm năm trước, nhưng cái tên Vĩnh Long thì mới chỉ ra đời cách đây 7 thập kỷ, sau ngày Vĩnh Linh trở thành Đặc khu vào năm 1955. Nhắc đến Vĩnh Long là người ta thường nghĩ đến miền quê lúa bên dòng Sa Lung huyền thoại, về miếu Bà Chúa nổi tiếng linh thiêng, về bến đò Phúc Lâm da diết câu hò đối đáp giao duyên của nam thanh nữ tú hai bờ. Bến đò ấy thuở chiến tranh là một cửa ngõ quan trọng như cái “yết hầu” trên tuyến giao thông chuyển quân lương, vũ khí đạn dược từ miền Bắc tập kết về Vĩnh Lâm, Vĩnh Sơn, cõng pháo qua Vĩnh Thủy diệt máy bay Mỹ… Và, với Vĩnh Long, không thể không nhắc đến làng quê Thượng Lập trượng nghĩa, nơi ra đời 1 trong 3 chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Vĩnh Linh từ những năm 1930 - 1931. Địa danh “làng Thượng Lập” và mốc son lịch sử này luôn được nhắc đến thật trang trọng mỗi khi nói về hào khí và truyền thống cách mạng mảnh đất Vĩnh Linh anh hùng.
Thượng Lập, nay chỉ còn vang bóng quá khứ vàng son, nhưng làng quê xưa ấy từng là một địa danh rất nổi tiếng. Một vùng đất rộng lớn, bao trùm phần lớn diện tích phía bắc của xã Vĩnh Long ngày nay và bây giờ thật khó hình dung địa giới cụ thể. Làng có doi rú nguyên sinh tên là rú Trằm, nay vẫn còn hiện diện, ôm lấy các thôn Nhà Tài, Xóm Mội, Thượng Hòa ở phía đông bắc. Rú kéo một vệt xanh rậm rì chạy song song với quốc lộ 1A. Doi rú này xưa cũng là một phần thuộc “Truông Nhà Hồ” huyền bí, một nơi chốn đầy rẫy hiểm nguy của nạn cướp bóc đạo tặc trên dặm trường thiên lý Bắc - Nam. Địa danh gắn với câu ca nổi tiếng mà sử sách nhắc mãi “Thương em anh cũng muốn vô / Sợ Truông Nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”. Nỗi khiếp sợ mang tên “Truông Nhà Hồ” từng kéo dài hàng trăm năm. Trải dọc theo rìa rú là những nghĩa địa cổ, mồ mả của những dòng họ lâu đời, đã hiện diện mấy trăm năm. Trong ngôi rú này có các địa điểm linh thiêng như mồ Trùm Chiêng, mồ ông Phượng, miếu Thần hoàng gắn với những giai thoại tâm linh truyền đời nửa hư nửa thực, được người đời rủ rỉ với nhau trong những câu chuyện truyền miệng nhưng cũng gieo nỗi ám ảnh, sợ hãi, khiến ít người dám đặt chân đến dẫu chỉ một lần. Một vùng đất cấm, một miền quê thiêng, tổng hòa lại mang tính chất rất khác lạ và khá riêng biệt. Chính điều này đã tạo nên yếu tố “địa lợi” cho việc hình thành và phát triển phong trào cách mạng về sau, biến Thượng Lập thực sự là cái nôi cách mạng đúng nghĩa của Vĩnh Linh.
Nơi đây, từ những ngày đầu chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản, ở làng quê Thượng Lập đã xuất hiện một lớp thanh niên ưu tú mang tư tưởng và hoài bão lớn. Những năm 1928 - 1929, khi tổ chức tiền thân của Đảng xuất hiện trên đất Quảng Trị là “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội”, ở Thượng Lập cũng đã có những gương mặt ưu tú như Xu Quảng, Tô Sắt, Trần Văn Ngoạn… tham gia. Họ thoát ly và sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng yêu nước và con đường cứu nước trong “Đường cách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc truyền bá vào Việt Nam. Trở lại quê hương, nhóm thanh niên này đã xúc tiến thành lập tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội năm 1929 ngay ở làng Thượng Lập, là một trong 3 tổ chức cách mạng tiến bộ ở phủ Vĩnh Linh lúc này. Về sau, khi Đảng Cộng sản ra đời năm 1930, trên nền tảng ấy, dưới sự bồi dưỡng, giác ngộ của Đoàn Bá Thừa - Bí thư Tỉnh ủy, Trần Ngọc Hoành - đặc phái viên của Tỉnh ủy lâm thời, chi bộ Đảng ở Thượng Lập ra đời vào tháng 5/1931, với 6 đảng viên đầu tiên, do Trần Văn Ngoạn làm Bí thư. Cùng với Huỳnh Công, Quảng Xá, chi bộ Thượng Lập là một trong 3 tổ chức Đảng đầu tiên của Vĩnh Linh. Sau khi xuất hiện 3 chi bộ này, Phủ ủy Vĩnh Linh cũng được thành lập ở một địa điểm bí mật trên chính mảnh đất Thượng Lập, với những thành viên cốt cán đến từ 3 tổ chức này.
Tổ chức Đảng ra đời sớm đã thực sự làm chuyển biến phong trào đấu tranh cách mạng ở miền quê nghèo. Làng Thượng Lập xưa ấy cũng là một điển hình về sự bóc lột tận xương tủy của quan lại phong kiến. Những tổng Chua, Cửu Kiệm… cường hào ác bá chiếm đoạt hết ruộng đất, lại thêm thuế khóa nặng nề, người dân trở thành bần cố nông, quanh năm cày thuê cuốc mướn mà đói nghèo cứ hoàn nghèo đói, lầm than. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, nông dân Thượng Lập đã đứng lên đấu tranh trực diện với lý trưởng, địa chủ, phú nông trong làng, mở kho thóc cứu đói, tăng tiền công cày, cấy. Trước phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi và mãnh liệt của quần chúng, chính quyền cơ sở địch gần như bị tê liệt, vô hiệu hóa, bọn hào lý không còn tác dụng quyền lực; lý trưởng, chức sắc làng, xã bị các tổ chức quần chúng cách mạng khống chế. Phú nông, địa chủ vốn quen hà hiếp, bóc lột người dân, nay đã tỏ ra hoang mang lo sợ, không dám hống hách như trước, phải nhượng bộ trước yêu cầu chính đáng của người dân.
Song, con đường cách mạng không hề dễ dàng, thuận lợi. Thực dân phong kiến với một bộ máy kìm kẹp khổng lồ đã thẳng tay đàn áp tổ chức cách mạng non trẻ. Nhiều hạt nhân ưu tú bị địch bắt bớ, tù đày và giết hại. Tỉnh ủy, Phủ ủy vỡ, chi bộ các nơi tan rã, rồi lập lại, rồi lại bị đàn áp đẫm máu. Thượng Lập chính là cái chấm đỏ lớn nhất trong cơn cuồng nộ lùng sục, bắt bớ của mật thám Pháp và giới cầm quyền ở Phủ Vĩnh Linh lúc ấy. Thiệt hại nhất là sau vụ ám sát Cửu Kiệm bị lộ do sự phản bội của một thành phần trong chi bộ, khiến hàng loạt đảng viên cốt cán của Thượng Lập bị bắt, tra tấn, tù đày biệt xứ như Trần Văn Ngoạn, Dương Liêu, Trần Đức Ấm, Trần Văn Nguyên… Đau đớn hơn cả là trường hợp đồng chí Trần Văn Luận, đảng viên của Thượng Lập, đồng thời là Bí thư Phủ ủy Vĩnh Linh, cùng đồng chí Trần Văn Trích, bị giặc tử hình mà trường bắn được dựng lên ngay trên chính quê hương, bắt hàng ngàn người dân Thượng Lập phải chứng kiến. Thiệt hại to lớn, đàn áp khủng bố gắt gao, nhưng kỳ lạ là sức sống và niềm tin của con người nơi mảnh đất này thật mãnh liệt và bất diệt. Lớp này ngã xuống, lớp khác đã thay thế để duy trì và phát triển phong trào ngày một mạnh mẽ hơn. Từ Thượng Lập và các nhân tố được cử tới bồi dưỡng, gây dựng phong trào ở khắp các làng thôn trong vùng. Giai đoạn 1936 - 1939, ngoài Thượng Lập, nhiều làng khác của Vĩnh Long cũng thành lập chi bộ Đảng như Sa Lung, Quảng Xá, Phúc Lâm, Lai Cách - chi bộ tiền thân của xã Vĩnh Chấp sau này. Không nơi nào tổn thất, hi sinh lớn hơn Thượng Lập, nhưng làng quê này ở bất cứ thời điểm khó khăn nào đều là nơi được chọn để nuôi giấu an toàn cho những cán bộ cấp cao, lãnh đạo chủ chốt Tỉnh ủy, Phủ ủy. Các đồng chí Đoàn Bá Thừa, Trần Xuân Miên - Bí thư Tỉnh ủy, Trần Đức Thưởng, Trần Ngọc Hoành - Tỉnh ủy viên giai đoạn 1930 - 1933 từng tìm về đây ẩn náu, được nuôi giấu an toàn và lấy đây làm địa bàn hoạt động chính. Sau này các đồng chí thuộc Xứ ủy và Trung ương như Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn, Trần Hữu Dực cũng đến đây diễn thuyết, hoạt động. Thượng Lập, như cách nói dân dã theo tiếng địa phương, đúng là miền quê “cách mạng nòi”.
Kế thừa truyền thống vẻ vang ấy, từ nền móng vững chắc mà các thế hệ tiền bối đã đổ máu xương gây dựng nên, từ Vĩnh Phúc, Bình Đức, Vĩnh Hội, Vĩnh Phong đến Vĩnh Hồ và Vĩnh Long bây giờ đã thừa hưởng “gen” cách mạng và nối tiếp nhau viết tiếp trang sử vàng quê hương. Một Thượng Lập bừng bừng khí thế nổi dậy giành chính quyền ngày 23/8/1945, cùng Phủ Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị và cả nước làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, lật đổ sự cai trị của thực dân phong kiến. Tiếp nối là một Vĩnh Long anh hùng trong chống Mỹ. Thượng Lập, rú Trằm, các cao điểm 49, 29, 18 là nơi bố trí trận địa pháo mặt đất, pháo phòng không và tên lửa đất đối không. Những rừng cây ở Quảng Xá, Vạn Côn, Bảo Đài, Cầu Điện là những “tổng kho” vũ khí, phương tiện khí tài cho mặt trận Trị Thiên; hậu cứ trọng yếu, thao trường huấn luyện của các đơn vị chủ lực như Sư đoàn 308, 320, 325, 341, Binh đoàn 559; các đoàn K8, K10, K14 bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị; các bệnh viện dã chiến như Viện 48, Viện 31, Bệnh viện C. Sông Sa Lung với bến đò Gia Phúc là tuyến giao thông huyết mạch. Với vị trí chiến lược ấy, làng mạc, đồi cây ở Vĩnh Long là những tọa độ bom pháo khủng khiếp, từng hứng chịu những trận B52 rải thảm xóa trắng thôn xóm, đau thương mất mát thật lớn lao. Đạp bằng mọi gian khổ, hi sinh, với quyết tâm sắt đá bám trụ “một tấc không đi, một ly không rời”, Vĩnh Long cùng Vĩnh Linh dựng nên thành đồng lũy thép để cuối cùng ca khúc khải hoàn chiến thắng.
Qua cơn tao loạn chiến tranh, giờ là một Vĩnh Long phát triển và đổi mới. “Nhất cận thị - nhị cận giang”, ưu thế đó đang được Vĩnh Long tận dụng triệt để trong công cuộc đổi mới. Bức tranh quê giờ đã đổi thay toàn diện. Xóm làng khang trang rõ nét nông thôn mới. Ruộng đồng mênh mông giờ là vựa lúa của Vĩnh Linh. Trên những triền đồi xưa là trận địa pháo giờ là trang trại, cao su, rừng tràm bạt ngàn...
Đảng bộ huyện Vĩnh Linh dâng hương tại di tích nơi thành lập Chi bộ Thượng Lập, xã Vĩnh Long - Ảnh: Thái Văn Kham
94 năm kể từ ngày sáu thanh niên làng Thượng Lập nắm chặt tay đứng cạnh nhau trong đêm tối bên miếu Thần hoàng trong ngôi rú Lòi Đình um tùm để tuyên thệ, thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của xã, của huyện. Để đến hôm nay, mỗi mùa xuân tới, cán bộ, đảng viên và nhân dân lại tề tựu trước bia di tích, kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ, ghi tạc công ơn các thế hệ tiền bối đã từng sống, chiến đấu và xả thân để dựng xây nên truyền thống cách mạng vẻ vang, hào hùng, oanh liệt của mảnh đất “địa linh” này.