Cánh đông, từ Tích Tường - Như Lệ xuống chợ Sãi, Long Quang ra Thanh Hội do các Tiểu đoàn K3, K14 và lực lượng huyện đội Triệu Phong, Gio Linh cùng du kích chốt giữ.
Trên hướng miền Tây Hải Lăng, từ nam Sông Nhùng vào đến Bắc Thừa Thiên các Tiểu đoàn 808, 812 cùng các đại đội địa phương huyện Hải Lăng đã chuẩn bị xong mục tiêu chiến đấu theo kế hoạch của Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh. Riêng Tiểu đoàn 10 Đặc công có nhiệm vụ luồn sâu vào phía sau lưng địch đánh vào các mục tiêu trọng yếu do Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh chỉ đạo. Đội hình của Tiểu đoàn 10 được bố trí như sau:
Đại đội 12 cùng Tiểu đoàn bộ đóng quân ở đông Vũng Tròn, dưới chân cao điểm 314, sát sông Nhùng. Đại đội 24 ở dưới chân cao điểm 367 (Mỹ gọi là căn cứ Bacbara), đại đội 36 lúc đầu ở gần Đại đội 12, sau một tháng thì cùng với Tiểu đoàn bộ chuyển vô Khe Ba Gia trong sông Mỹ Chánh. Tháng 10/1974 đại đội 36 được Quân khu Trị Thiên điều vào Phong Sơn - Phong Điền - Thừa Thiên, thay chân Đại đội 5 của Tiểu đoàn 33 Đặc công Quân khu Trị Thiên, phụ trách căn cứ Hiệp Khánh - Đồng Lâm, nơi đặt Sở chỉ huy Sư đoàn Dù quân đội Sài Gòn, để Đại đội 5/dĐC 33 chuyển vào phụ trách sân bay Phú Bài, sân bay duy nhất quân vận chi viện cho hai tỉnh phía Bắc Quân khu I quân đội Sài Gòn. Trước Tết Ất Mão 1975 khoảng 15 ngày, đại đội 36 được lệnh để lại một Trung đội ở Bắc Thừa Thiên bám nắm căn cứ Hiệp Khánh - Đồng Lâm, (vì lúc này Bộ chỉ huy Sư đoàn Dù ngụy đã chuyển vào Đà Nẵng để chỉ huy Sư đoàn Dù phản kích hòng chiếm lại Thượng Đức bị ta đánh chiếm từ tháng 8/1974). Hai Trung đội của đại đội 36 rút về đội hình Tiểu đoàn, đóng dưới dốc Chị Em. Dốc Chị Em là điểm phân thủy của sông Mỹ Chánh và sông Nhùng, để phối hợp với đại đội 12 chuẩn bị tấn công Chi khu Quân sự Mai Lĩnh.
*
Sau thắng lợi của chiến dịch Đường 14 - Bình Long ở miền Đông Nam Bộ được coi là “đòn trinh sát chiến lược”, đầu tháng 1/1975, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương khẳng định quyết tâm mở cuộc Tổng tấn công nổi dậy mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Mùa xuân năm 1975. Trên các con suối, dòng sông miền tây Quảng Trị, cây hoa đỗ quyên rừng mọc dày hai bên bờ đồng loạt bung hoa đỏ rực một màu cờ rất đẹp… Ăn tết xong không khí vào chiến dịch rộn ràng. Con đường chiến lược 15N nối chiến khu Ba Lòng Quảng Trị với chiến khu Hòa Mỹ bắc Thừa Thiên nhộn nhịp người và xe kéo pháo, chở quân và vui nhất là tiếng các em nữ thanh niên xung phong cười nói râm ran khi sửa đường ra trận…
Thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương Quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2 quyết định mở Chiến dịch giải phóng Trị Thiên như là hướng nghi binh chiến lược cho chiến trường chính là Buôn Ma Thuột nam Tây Nguyên.
Sáng 2/3/1975 anh Lê Hữu Thử, Chính trị viên Tiểu đoàn bảo tôi đi với anh lên tiền phương Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Trị họp. Từ Sở chỉ huy Tiểu đoàn đóng ở khe Ba Da phía tây ngầm vượt sông Mỹ Chánh trên đường 15N khoảng 7 - 8 km. Sở chỉ huy Tiền phương tỉnh đội đóng phía trong, phía ngoài là một trung đội của đại đội 17 vệ binh và đại đội 23 Trinh sát. Theo quy định bảo mật, tôi không được đi theo anh Thử vào chỗ họp mà ở ngoài vọng gác vệ binh. Anh Thử họp từ sáng tới 3 giờ chiều mới xong. Trên đường về lại Tiểu đoàn, anh Thử chỉ cái xắc cốt đeo bên hông nói với tôi: "Nếu có chuyện gì xảy ra thì em phải đưa bằng được tài liệu trong túi này về giao cho các anh trong Ban chỉ huy Tiểu đoàn".
Sau này tôi mới biết trong túi xắc cốt anh Thử là toàn bộ nhiệm vụ bổ sung của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh cho Tiểu đoàn 10 sau khi Đại đội 12 tăng cường một trung đội của Đại đội 36 tiến công Chi khu Quân sự Mai Lĩnh.
Anh Thử Chính trị viên đi nhận nhiệm vụ bổ sung vì lúc đó anh Hồ Minh Thanh, Tiểu đoàn trưởng trực tiếp chỉ đạo Đại đội 12 đánh Mai Lĩnh. Sở dĩ anh Thử dặn tôi như vậy vì lúc này ta sử dụng đường chiến lược 15N khá nhộn nhịp để chuẩn bị chiến dịch nên bọn địch chốt trên điểm cao 367 (Bacbara) nhìn thấy và chỉ điểm cho cụm pháo binh ở Dốc Dầu, ở căn cứ Nancy cũ thường xuyên bắn lên ngăn chặn.
Đêm 8/3/1975 đại đội 12 được tăng cường một trung đội của đại đội 36 và một tổ trinh sát của Tiểu đoàn do Tiểu đoàn trưởng Hồ Minh Thanh trực tiếp chỉ đạo, Đại đội trưởng Phan Hải Quân chỉ huy, nổ súng tập kích Chi khu Mai Lĩnh. Trận Mai Lĩnh là trận mở màn cho chiến dịch tiến công nổi dậy mùa xuân 1975 ở Quảng Trị. Chiến thắng Mai Lĩnh là phát bộc phá lệnh cho quân dân Quảng Trị đồng loạt xông lên quyết tâm giải phóng phần đất còn lại của tỉnh bị quân đội Sài Gòn tái chiếm trong cuộc hành quân Lam Sơn 72. Cùng với chiến thắng Mai Lĩnh, Tiểu đòan 3, 8, 14, 812, các đại đội địa phương huyện Hải Lăng, Triệu Phong có du kích dẫn đường vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của Liên đoàn 913 địa phương quân nguỵ thuộc Tiểu khu Quảng Trị thực hiện, luồn lách, đánh quần lộn trong hậu phương của chúng. Quân ta đồng loạt tiến công Phân chi khu Hải Lâm, Hải Trường, Hải Sơn, Hải Chánh. Các đội an ninh vũ trang thọc sâu xuống đồng bằng diệt ác ôn, phá thế kềm kẹp của địch, hỗ trợ nhân dân nổi dậy, gây hoang mang, cầm chân các lực lượng cơ động, không cho chúng ứng cứu lẫn nhau. Hoạt động này kéo dài trong suốt thời gian đại quân ta ở hướng chính đánh chiếm Buôn Ma Thuột.
Sau khi đại đội 12 đánh thắng trận Mai Lĩnh, ngày 11 tháng 3, Tiểu đoàn 10 nhận lệnh bổ sung nhiệm vụ của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh: sử dụng toàn bộ lực lượng của đại đội 24, 36, Tiểu đoàn bộ...cùng các Tiểu đoàn 808, 812, các đại đội bộ đội huyện Hải Lăng, Hướng Hóa và du kích các xã trong toàn huyện Hải Lăng đồng loạt tiến công vào tuyến phòng ngự vòng ngoài của quân ngụy thuộc Tiểu khu Quảng Trị ở tây Hải Lăng. Tuyến phòng thủ này kéo dài từ cao điểm 314 bắc sông Nhùng thuộc xã Hải Lâm huyện Hải Lăng vào cao điểm 367 bắc sông Mỹ Chánh giáp xã Phong Mỹ huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên. Tuyến phòng thủ này do các Tiểu đoàn địa phương quân ngụy 119, 120, 121, 122, 124 đảm nhiệm. Chúng thực hiện chiến thuật "rải mỏng chốt dày" để ngăn chặn trinh sát, các tổ an ninh vũ trang, du kích ta luồn về đồng bằng Hải Lăng hoạt động. Do phải rải mỏng lực lượng nên mỗi điểm chốt địch chỉ bố trí lực lượng từ cấp Tiểu đội đến một trung đội, cao nhất là đại đội. Cách bố trí lực lượng địch ở từng chốt như vậy dễ "làm mồi " cho ta bí mật tiến công dứt điểm.
Lúc này quân ta ở hướng chiến lược chính nam Tây Nguyên đã nổ súng đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Bị cú điểm huyệt hiểm, bất ngờ, tuyến phòng thủ của Quân đoàn 2 ngụy Sài Gòn ở Tây Nguyên sụp đổ. Chớp thời cơ, Quân khu Trị Thiên hạ lệnh nổ súng phối hợp với mặt trận chính Tây Nguyên nhằm giam chân Sư đoàn Thủy quân lục chiến tại Quân khu 1 không cho lực lượng tổng trừ bị chiến lược này cơ động ứng cứu Tây Nguyên. Mệnh lệnh lúc này của các lực lượng vũ trang Quảng Trị là: "Dốc toàn bộ lực lượng, tiến công địch cả diện lẫn điểm, cả trước mặt và sau lưng, làm cho địch rối loạn không ứng cứu được nhau, một ngày bằng 20 năm, bức rút địch về phía đông đường số 1".
Chấp hành mệnh lệnh của trên, Tiểu đoàn 10 điều Đại đội 24 hành quân khoảng 20km từ Mỹ Chánh ra Vũng Tròn, về tập kết ở dãy bình độ 90 nam sông Nhùng để tiến công cao điểm 122 nơi có một đại đội địch chốt giữ. 16h ngày 11/3/1975 Đại đội 24 đến vị trí tập kết đúng thời gian quy định. Tôi được giao nhiệm vụ đi theo bảo vệ anh Phạm Đức Thắng, Phó Tiểu đoàn trưởng, đốc chiến trận tiến công cao điểm 122 do đại đội 24 thực hiện. Cao điểm 122 có 2 mỏm nối nhau qua yên ngựa, Đại đội 24 tổ chức đánh đồng loạt cả hai mỏm một lúc để đối phương không thể chi viện cho nhau. Đến phút chót, mũi đánh mỏm thứ yếu thiếu người, anh Thắng bảo tôi: “Em bổ sung vào mũi đó cho đủ quân số”. Vậy là tôi bước vào trận đánh trong đội hình Đại đội 24.
Trận đánh giằng co vì đã mất yếu tố bất ngờ đối phương dựa vào công sự chống trả quyết liệt, cả hai mỏm ta đều không dứt điểm được. Trời sáng dần quân ta phải rút ra, lực lượng ít, ta không thể đánh thắng đối phương đông hơn trong công sự vững chắc. Trận này anh Nguyễn Văn Giáp, mũi trưởng bên hướng chính bị thương vào thái dương, vết thương nhỏ như hạt đậu xanh không ra máu nhưng mấy ngày sau anh hy sinh trong quân y viện 43 ngoài Đầu Mầu. Có lẽ bị thiệt hại nặng và hoang mang cùng với áp lực của ta trên toàn tuyến nên chiều 12 tháng 3, tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch bị vỡ, địch rút chạy khỏi một loạt cao điểm 122, 176, dãy bình độ 90... Hành lang xuống đồng bằng theo sông Nhùng bỏ ngỏ.
Chiều 16 tháng 3, anh Hồ Minh Thanh, Tiểu đoàn trưởng gọi tôi lên giao cho tôi một phong bì to sụ, dặn: “Ngay bây giờ em mang văn kiện này ra Sở chỉ huy Tiền phương tỉnh đội Quảng Trị hiện đóng ở khe Ông Bích ngoài Vũng Tròn để các anh ấy phê chuẩn rồi mang về ngay đêm nay!”.
Anh Thanh mở tấm bản đồ quân sự, chỉ tọa độ cho tôi nhận diện, tôi trả lời: “Em nhớ và biết vị trí rồi!”. Anh đưa cho tôi bánh lương khô BA 70 loại của sĩ quan trung cấp, tôi vừa đi vừa bẻ ăn dọc đường.
Ra đến khe Ông Bích trời chập tối, tôi thấy Trung tá Lương Chí Hiền, Chính ủy tỉnh đội và các sĩ quan Tham mưu ngồi quây bên chiếc bàn tre rộng, đèn ắc quy sáng trưng, trên bàn mở sẵn bản đồ khu vực tác chiến ngồi chờ. Tôi trao phong bì đựng văn kiện chiến đấu cho một sĩ quan tham mưu. Một chiến sĩ vệ binh ở Sở chỉ huy tiền phương dẫn tôi xuống bếp ăn cơm. Ăn cơm nóng với thịt hộp xào rau dớn thơm lừng. Tôi trở lên thấy phong bì văn kiện đã được niêm phong, đóng dấu bảo mật. Khi tôi nhận lại phong bì, Chính uỷ Lương Chí Hiền dặn: “Khẩn trương nhé, đơn vị đang chờ em mang mệnh lệnh hành quân chiến đấu ở nhà!”.
Tôi đi như chạy trở lại đơn vị sớm hơn thời gian quy định gần 2 giờ. Đưa phong bì cho anh Thanh, tiểu đoàn trưởng, tôi tưởng được nghỉ xả hơi, nhưng anh Thắng Tiểu đoàn phó ra lệnh: “Chuẩn bị vũ khí quân trang hành quân cùng 2 trung đội của đại đội 36 mới điều ở Thừa Thiên ra, cùng với tất cả cán bộ chiến sĩ của đại đội, kể cả anh nuôi y tá, tiến công sở chỉ huy Tiểu đoàn 119 Địa phương quân tiểu khu Quảng Trị". Tiểu đoàn 119 địa phương quân được coi là Tiểu đoàn mạnh nhất trong tuyến phòng thủ phía tây Hải Lăng của địch.
Sau một ngày luồn rừng, 17h ngày 17 tháng 3 năm 1975, lực lượng “vét” của tiểu đoàn 10 đã đến vị trí tập kết bên ngoài hàng rào tiểu đoàn 119 ngụy phòng ngự. Chập tối các mũi bắt đầu đột nhập, 22 giờ ta nổ súng tấn công Sở chỉ huy Tiểu đoàn 119 với quyết tâm “đánh nát đầu rắn” để loại Tiểu đoàn địch ra ngoài vòng chiến. Chỉ huy trận này Tiểu đoàn 10 gồm anh Lê Hữu Thử chính trị viên Tiểu đoàn và anh Nguyễn Đức Thắng, Phó Tiểu đoàn trưởng chỉ huy. Tôi là liên lạc viên cùng hai chiến sĩ Trinh sát Tiểu đoàn và một chiến sĩ thông tin vô tuyến điện 2W nằm ngoài cửa mở. Chúng tôi cải tạo một hố bom cũ làm Sở chỉ huy.
Nổ súng được khoảng năm phút, tiếng thủ pháo nổ đều ở tất cả các mũi nghe rất đĩnh đạc. Tuy nhiên từ phút thứ sáu trở đi địch chống trả quyết liệt. Đạn đại liên M30, đạn tiểu liên M16, đạn M79 nổ như sấm rền. Một lúc sau cối 106,7mm, cối 81mm, pháo lựu 105mm từ nhiều trận địa bắn tới chi viện dày đặc, khói lửa mịt mù, mảnh trái phá réo chiu chíu như chim vỡ tổ
Bỗng từ cửa mở, anh Nguyễn Thanh Huần trung đội phó vác ra vị trí chỉ huy một người mang nguyên khẩu súng và một túi to đùng. Thoạt đầu ai cũng nghĩ là thương binh hay liệt sĩ nhưng khi anh Huần đặt xuống đất thì “thằng người” lồm cồm bò dậy và run rẩy: “Tôi không phải lính chiến, tôi là y tá. Súng tôi đây, chưa bắn phát nào…”. Anh Huần bàn giao tù binh cho chỉ huy xong lại lao vào bên trong tiếp tục chiến đấu.
Tôi gỡ khẩu M16 trên người anh lính Sài Gòn ra, tháo hộp tiếp đạn thấy vẫn còn đầy nguyên 21 viên, ngửi vào nòng súng không có mùi thuốc đạn. Tôi bảo: “Lính chiến hay y tá không quan trọng, từ giờ phút này trở đi anh phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của chúng tôi tính mạng anh sẽ được bảo đảm”. Anh Thử ra lệnh cho tôi: “Em là người Quảng Trị sơ cung ngay tên tù binh để biết lực lượng địch đang đánh nhau với ta có bao nhiêu tên, là đơn vị nào”. Người lính khai: “Tôi tên là Nguyễn Hào, cấp bậc Trung sĩ nhất, chức vụ: Y tá trưởng, đại đội 2 Tiểu đoàn 119 địa phương quân thuộc Tiểu khu Quảng Trị. Đại đội 2 đóng quân cùng Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 119. Chiều nay tôi về Tiểu khu nhận thuốc men bông băng cho đại đội lên muộn. Vừa chia thuốc xong cho y tá các trung đội thì các ông nổ súng tấn công, tôi khoác túi cứu thương mang súng chạy ra sân thì xáp mặt với một anh giải phóng, anh ấy xông tới xoay ngược quai súng tôi cho nòng súng hướng lên trời rồi vác cả tôi và súng ra đây”. Như vậy là đã rõ, lực lượng ta không phải chỉ đánh nhau với Sở chỉ huy Tiểu đoàn 119 mà với cả một đại đội địch ở cùng. Chính vì vậy mà sức kháng cự của địch tăng gấp đôi so với dự kiến…
Kiểm tra tư trang tù binh Nguyễn Hào, trong túi có chiếc ví, trong ví chỉ có tấm thẻ bài và một lá số tử vi. Anh Hào giải thích: “Dạ, chiều qua con về Tiểu khu nhận thuốc cho đơn vị, còn bao nhiêu tiền khi ghé qua nhà con đã giao hết cho vợ... Ở dưới Tiểu khu, Trung tá Đỗ Kỳ Tiểu khu trưởng Quảng Trị đã phát tiêu lệnh “ưu tiên tuỳ nghi di tản”.
Bên trong căn cứ, diễn biến trận đánh vẫn được truyền ra, quân ta lần lượt chiếm sở chỉ huy 119, tiêu diệt trung đội súng cối 81mm, đánh thẳng vào sinh lực địch co cụm. Tiếng thủ pháo, tiếng B40, B41, tiếng súng AK vẫn nổ giòn và dần áp đảo quân địch. Sau hai mươi phút ta kiểm soát hoàn toàn trận địa, tìm kiếm thương binh tử sĩ rồi rút quân dưới màn đạn pháo mịt mù. Vừa lên tới hậu cứ thì Tiểu đoàn nhận lệnh hoả tốc: “Địch có dấu hiệu rút chạy khỏi Quảng Trị, các đơn vị thần tốc tiến về đồng bằng truy kích tiêu diệt không cho chúng rút vào co cụm ở Thừa Thiên”. Hầu như cùng lúc cả 5 tiểu đoàn chủ lực của Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Trị và các đại đội của huyện đội Hải Lăng, Triệu Phong và du kích chia làm ba hướng nhất loạt tiến công quân địch.
Chiều 19 tháng 3 năm 1975, quân địch rút hết sang bên kia sông Mỹ Chánh trời Hải Lăng trong xanh, nắng đẹp, tiếng súng đã ngừng, 15% đất đai còn lại của tỉnh Quảng Trị hoàn toàn giải phóng. Ngày hòa bình đầu tiên sau 21 năm chiến đấu ác liệt ở chiến trường Quảng Trị là một khoảnh khắc đầy xúc động.
Ánh mặt trời chiếu rọi, làm sáng bừng những cánh đồng lúa xanh tươi đang độ làm đòng. Hàng cây ven đường Thượng Xá đứng im lìm, như đang hồi tưởng lại những ký ức đau thương. Tiếng chim lại hót từ những vòm cây, điệu du dương như một bản nhạc hòa bình, xua tan đi những tháng ngày đạn lửa. Ngày hòa bình đầu tiên không chỉ là dấu ấn đẹp kết thúc cuộc chiến còn là thông điệp của một chương mới: Quảng Trị nơi mà tình yêu thương, đoàn kết và khát vọng hòa bình sẽ được vun đắp và phát triển.