Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 26/12/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Bùi Giáng trong tôi

T

rước mắt tôi là chân dung của một người đứng tuổi, tóc và râu cằm lưa thưa, gương mặt hốc hác, có một mắt mang kính đen khiến tôi nghĩ đến một câu nhạc của Trịnh Công Sơn "còn hai con mắt khóc người một con...". Đó là chân dung Bùi Giáng do bé Ký vẽ để lại cho tôi trước khi xuất ngoại. Còn lại là, đầy ắp trong tôi, những điều tôi nghĩ về Bùi Giáng và đã kết luận từ lâu.

Điều tôi kết luận, thứ nhất, rằng tên tuổi Bùi Giáng thuộc lớp thi sĩ hàng đầu của hậu bán thế kỷ XX, có trước cả những tác giả của những câu thơ sang trọng kiểu này: "Thướt tha hồn của bông hường, nghe trong hơi gió còn vương máu hồng". Vậy cứ một nửa thế kỷ còn lại một người. Tôi nói như thế chắc sẽ làm nhiều người bực mình, và tôi cũng e rằng miền Bắc ít có người biết đến Bùi Giáng thuở ông nổi tiếng. Chế Lan Viên đã khẳng định trên báo Tuổi Trẻ như thế về Hàn Mạc Tử và thơ Việt Nam tiền bán thế kỷ XX.

Bùi Giáng có công rất lớn với thi ca Việt Nam, trước hết là về phương diện từ ngữ, chữ của Bùi Giáng là chữ bụi bặm thường ngày; hình như người ta vứt đi, và ông nhặt lên, phủi phủi, hà hơi vào, để tất cả hóa thành thơ. Trong thơ Bùi Giáng có cả "cánh chuồn chuồn và cánh bướm". Đó chính là tập thơ Mưa nguồn mà gần đây NXB Văn học mới in lại của Bùi Giáng. Bên cạnh thơ siêu thực, thơ tự do của thời thượng bấy giờ, giọng thơ dân gian của Bùi Giáng đã khiến ông trở thành một hiện tượng không thể phủ nhận, cũng giống như Nguyễn Bính thời tiền chiến. Ví dụ, ai đã đọc những câu sau:

Làm con bé chạy đồi sim

Vấp chân hốc đá tiếng kèn nghiệt ma

Ngày mai bưng mặt khóc òa

Trời trên đất dưới té ra chung tình

thì ắt không thể nghi ngờ về công của Bùi Giáng đối với thơ Việt Nam.

Thứ hai, nói đến thơ Việt Nam, là chắc chắn ta nghĩ đến thơ lục bát. Không hẳn vì chỉ có Việt Nam mới có thể thơ này (Chiêm Thành cũng có) mà bởi vì đó là thể thơ của nhịp hai, là nhịp của cái gàu tát nước, là tiếng đưa võng, là nhịp của tao nôi, và là nhịp của trái tim đập trong lồng ngực. Thí dụ thứ nhất thuộc về Nguyễn Du:

Trăm năm/ trong cõi/ người ta

Chữ tài/ chữ mệnh/ khéo là/ ghét nhau.

Bùi Giáng cũng đi nhịp hai như vậy. Hồi chúng tôi còn trẻ (cuối thập niên 50), tôi thường lui tới một căn nhà trọ thuộc hẻm Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách mạng tháng 8), và đi ngang qua nhà của Bùi Giáng. Đó là một căn nhà hầu như trống trải, nghe nói do một người bà con giàu có là bác sĩ Tín mua cho và gửi trước cả tiền cơm tháng dù ông Bùi Giáng có về ăn hay không. Tôi nhìn vào thấy lũ trẻ trong xóm đang ngồi đầy căn phòng, miệng hò la:

- Ông Bùi Giáng! ồng đờn (đàn) đi!

Bùi Giáng làm bộ cầm một cây đàn violon và kéo, vừa "hát" thơ của ông theo điệu bài chòi:

Đem tôi đến giữa màu đêm

Giết tôi chết giữa người quên mặt người

Lũ trẻ vỗ tay ran ran. Chúng tiếp tục hò reo:

- Ông bùi Giáng đờn hay quá!  Đờn nữa đi!

Bùi Giáng tiếp tục:

Hãy đem tôi tới ngoài xa

Giết tôi chết giữa màu hoa trên ngàn

Ông lại cười ha hả, vừa đàn với cây vĩ cầm ảo tưởng, vừa hát theo ý lũ trẻ: "Ông hát đi, ông hát nữa đi"

Hãy đem tôi tới ngoài xa

Giết tôi chết giữa dâu Tần cỏ Yên...

Ông Bùi Giáng giống như người Nghệ, ít thay đổi giọng nói. Giọng Quảng của ông phổ vào điệu bài chòi nghe gan ruột lạ lùng. Có người thấy việc kể lại rằng: Một ngày nọ, ông Bùi Giáng ra hóng mát đầu hẻm, thấy một người đàn ông từ lục tỉnh lên, vừa đi vừa dòm những số nhà. Bùi Giáng giữ ông già lại, mới biết ông đang di tìm thuê một căn nhà. Bùi Giáng đon đả:

- Mời ông vô ở với tui, khỏi phải thuê nhà, tui cho ông ở không lấy tiền.

Ông già lắc đầu:

- Cảm ơn thầy, nhưng tôi còn ở chung với cả gia đình.

Bùi Giáng ngập ngừng một lát , rồi gật đầu:

- Gia đình cũng được. Tui ở một mình buồn quá!

"Gia đình" của ông già gồm có vợ, hai cô gái mà ông gọi là "con Hai, con Ba", và người chồng của cô Ba là một trung sĩ (chế độ cũ). Một hôm ông trung sĩ đi chiến trường Tây Nguyên về, gặp ông Bùi Giáng đang đưa cô Ba đi chơi công viên. Ông Bùi Giáng lịch sự xin phép ông trung sĩ đi chơi với cô Ba một quãng, tới cái máy nước gần đó rồi đi vào trở lại, "trả vợ" cho ông trung sĩ. Ông trung sĩ cười vui vẻ:

- Thầy cứ tự nhiên, có sao đâu!

Và Bùi giáng lam theo lời hứa. Một hôm cả nhà làm một bữa cơm thịnh sọan đãi ông Bùi Giáng. Nửa chừng, ông già ngỏ ý gả cô Hai cho ông Bùi Giáng, "vì con ba đã có chồng rồi". Ông Bùi Giáng nói tỉnh bơ:

 - Tui biết rồi. Hiềm vì cô Hai xấu quá, không hạp nhãn tui.

Sau này người ta biết rằng ông Bùi Giáng yêu cô Ba mê mệt. Thỉnh thoảng người ta đọc thấy một dòng chữ viết phấn trên cái bảng đen vẽ giữa nhà: "Vì BG làm cô Ba giận nên không dám về. BG xin phép cô Ba vắng mặt...ngày".

Hồi đó, tôi dạy Việt văn ở trường Tư thục Văn Lang còn Bùi giáng dạy lớp luyện thi ở gần đó. Tôi thấy Bùi Giáng ra đề: "Nếu cho anh chọn giữa Thúy Kiều và Thúy Vân làm vợ, thì anh sẽ chọn ai". Tôi cười thầm trong bụng, vì tôi cũng dạy Kiều ở lớp đệ nhị. Lớp đông học trò, nên dạy nửa chừng, áo ông Bùi Giáng ướt dầm dề. Ông cứ tự nhiên đứng giữa lớp cởi áo ra, nhét vào túi quần và lôi từ túi quần kia một cái áo nhàu nhò và mặc thay vào cũng giữa lớp. Cách dạy đó, từ lối ra đề đến lối mặc áo đều bộc lộ tính tự do tuyệt đối của Bùi Giáng.

Ở Huế, có một người in thiệp, dòng trên tên mình thì dòng dưới ghi cả chức vụ của cha, ông nội và cố, toàn là quyền cao chức trọng. Bùi Giáng chẳng xem những điều đó quan trọng gì, dù ông thuộc về gia đình của Hoàng Diệu. Nhân một cuộc cãi vã, ông đứng trước nhà thờ họ Hoàng, kêu Hoàng Diệu bằng thằng, chửi vã một hồi rồi bỏ đi thẳng đến mấy chục năm.

Rồi chiến tranh làm chúng tôi xa nhau.
Sau giải phóng, tôi tìm thấy một tấm thiệp mốc meo ở trong sách nhà Đinh Cường, tấm thiệp chỉ ghi:

Hỏi tên, rằng: "Biển - Dâu- Ngàn"

Hỏi quê, rằng: "Xứ mơ màng", đã quên

Quả nhiên đó là thiệp của Bùi Giáng. Ông chỉ nhớ như vậy và đã quên cả tên của mình. Tôi nhớ Đặng Quân "ở bên Pháp" có lần nói: Quê hương nhà thơ thuộc "bông lông xã, Ba la huyện". Hỏi quê, rằng xứ mơ màng đã quên".

* * *

Tôi có thói quen khi đi đường rừng một mình thường ngâm thơ, hoặc hát vang, để nghe giọng người trong hoang vắng cũng đỡ cô độc. Lần ấy, tôi đi lấy lá nón về lợp nhà, ngâm to bài thơ sau đây:

Người trở về trên năm ngón chân

Bàn tay người có đầy năm ngón

Người đứng xa tôi tiến lại gần

Tôi gặp người mừng rỡ biết bao

Trời xanh như lá ở trên cao

Con chim nó nhảy trên cành lá

Người nắm tay tôi nhẹ dẫn vào

Ngôi nhà người dựng giữa trời xanh

Cửa ghép bằng cây với nhành cành

Để khép sơ sơ và cũng để

Mở mời anh chị bước vào nhanh

Hôm xưa đi đốn củi trong rừng

Lạc mất đường về chợt bỗng dưng

Sực nhớ nơi đây rừng núi thẳm

Là quê, thân thiết biết bao chừng

Vừa đọc đến đoạn cuối tôi chợt nghe một giọng sang sảng vang lên sau lưng:

- Chà, anh T đọc thơ hay quá . Thơ ai đó?

Nghe giọng nói tôi đoán là anh TH, đang đứng bên lề con đường mòn dẫn vào cơ quan tỉnh ủy, tôi lẹ miệng:

- Dạ, thơ Xuân Diệu.

- Ông Xuân Diệu làm thơ hay quá nhỉ? Vậy mà hồi đi học tôi không biết.

- Ai mà đọc cho hết thơ của Xuân Diệu. Ông Xuân Diệu làm thơ nhiều lắm.

Tôi quay nhìn lại, thấy anh Th vội vã đi trên đường mòn. Thật ra đấy là một bài thơ của Bùi Giáng, không biết bao giờ đã lọt vào trí óc tôi. Tôi nhận thức đây là một bài tóm gọn hiện tượng luận của Heidegger trong quyển "Những con đường rừng": Khách thể (ở đây là chân lý) có đặc điểm cởi mở (sẵn sàng để được nhận thức) và chủ thể thì hiểu bằng sự thông cảm. Hình như Bùi Giáng thích hiện tượng luận của Heidegger hơn thuyết hiện sinh của Jean P. Sartre. Chả thế mà trong một quyển sách viết về Heidegger, Bùi Giáng đòi dùng roi quất Jean P.Sartre, "để cho nó biết thế nào là triết học" và khi có người chê quyển sách ấy thì Bùi Giáng đến xóm gõ cửa đòi đánh nhau (lúc ấy Bùi Giáng còn trẻ nên rất hăng).

Tôi cho rằng cái tài năng làm thơ không cần phải đi thực tế. Một lần tôi đi ngang qua Rừng Thông, một xã Trường Sơn giáp giới giữa Thừa Thiên - Huế và Quảng Trị. Những o du kích đi bật hầm sau Mậu Thân lên sống tạm ở hầm hố trên núi đến độ họ bị nạn cháy rận: Các o đi ra miền Bắc, ngồi giữa rừng thông bắt chấy cho nhau và khi họ vạch tóc ra, thấy tóc xanh trở thành bạc vì trứng chấy. Tôi nhớ lại:

Hai bên đường ngồi lại

Những người đếm tóc nhau

Kỷ niệm về kinh hãi

Tóc xưa đã phai màu

và thầm nghĩ: Quái lạ! ông Bùi Giáng đi thực tế lúc nào mà biết cảnh này? Có lẽ ông đã thấy nó khi ông còn là một thiên thần sống trong thế giới hoàn hảo mà Platon gọi là thế giới ý niệm; ở đó, ông đi dự đám rước những ý niệm, trong đó có ý niệm đếm tóc trên. Ông sa đọa xuống cõi trần và trở thành nhà tiên đoán, đời gọi là thi sĩ...

٭ ٭ ٭

Tôi xa Bùi Giáng khá lâu. Hết chiến tranh, tôi ghé tìm ông ở nhà Đinh Cường, nói: "Nghe ông Bùi Giáng dạo này điên rồi có phải không?"

- Điên đâu mà điên, trưa ông thường ghé đây, tắm rửa, chải đầu rất bảnh trai, ngồi nơi ghế đó làm thơ rồi biến mất.

- Bây giờ tìm ông ở đâu?

- Suốt ngày ông ấy lang thang không biết tìm đâu. Ban đêm thường lãng vãng trong đó. Giờ này chắc còn.

Cường vừa nói vừa chỉ tay ra trước mặt, phía nghĩa trang bên kia đường.

Tôi chạy đi tìm, thấy ở nơi nhà của nghĩa trang có giăng một chiếc màn tuynh trắng, bên cạnh chiếc đèn hột vịt. Vừa thấy tôi đến, một bóng người trong màn vụt chạy ra, trốn sau bia mộ. Tôi tưởng ông Bùi Giáng có ý đùa, bèn gọi to tên ông và xưng tên tôi. Khi tôi đến gần, bóng người lại chạy trốn sang một ngôi mộ khác, cứ thế cuộc đuổi bắt tiếp tục diễn ra. Lúc đầu tôi nghĩ ông Bùi Giáng có ý đùa giai; sau cùng, là tôi biết ông có ý định "chạy trốn" thật bèn bỏ cuộc. Sáng hôm sau tôi tìm vào căn nhà cuối nghĩa trang, là một căn nhà lục giác bỏ hoang, nền cao, và chiếc màn trắng đêm đó đã biến mất. Tôi đến sau bức tượng thiên thần bằng đá, giở nắp lên nhìn xuống đáy, suýt thét lên một tiếng kinh hãi: dưới đáy nền, là một hầm mộ ngổn ngang những xương ống, xương sườn và đầu lâu… Hỏi Đình Cường, tôi mới biết đó là hầm mộ của một gia đình ở Hồng Kông. Hóa ra bấy lâi ông Bùi Giáng vẫn ngủ trên đống xương người như vậy.

Năm ngoái, tôi và Ngô Văn Tao có đến nhà riêng ở Bình Thạnh tìm Bùi Giáng. Ông Văn Tao là giáo sư toán học ở Canada, thi sĩ đã in nhiều tập thơ ở trong nước, coi Bùi giáng như sư phụ và loay hoay chép lời Bùi Giáng. Ông giằng điếu thuốc trên tay tôi như sợ tôi hút hết và quên mời ông, nói:

- Từ đây đến chết tao còn một vạn câu thơ. nhưng mày chỉ cần nhớ hai câu này là đủ. và ông đọc:

"Ngày mai cá sống phiêu bồng

Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi"

Ông nói chuyện với tôi, ngồi xổm trên nền nhà và mặc chiếc quần lãnh ở trong, thò hai ống quần ra ngoài chiếc quần cộc. Nên có người nhận thấy ông choàng một tấm vải có treo lon tùm lum và rong chơi khắp phố phường. Ông tự xưng là "trung niên thi sĩ". Còn tôi coi ông là người của nỗi cô đơn không thèm nói ra. Nghe nói chiếc quần lãnh kia cũng thuộc một người đàn bà mà ông ngưỡng mộ. Trong bài thơ Phùng hiến nổi tiếng, ông đã viết những câu thật là nhân ái:

Tôi gửi lại đây mấy dòng ảo não

Mấy vần thơ tuyệt vọng gửi cho em

Rồi gục đầu trên trang giấy hão

Em bảo rằng:

Đừng tuyệt vọng nghe không?

Còn mãi đây,

Trang thơ thắm lại với đời hồng

Hoá ra đỡ đầu cho nỗi cô đơn của ông cũng là một bàn tay con gái...

                                                                                Tháng Chạp 1998

                                                                                        H.P.N.T

Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 54 tháng 03/1999

Mới nhất

Đồng cảm “Bốn mùa thương nhớ”

23/12/2024 lúc 17:07

Trong cuộc sống của con người thì sự ăn quan trọng vào bậc nhất. Cổ nhân có câu, dịch nghĩa ý rằng: Nước lấy dân làm trời, dân lấy ăn làm trời. Ăn không chỉ để sống, để tồn tại, để lao động, cống hiến mà còn là để khoái khẩu, để thưởng thức, suy ngẫm và trải nghiệm, đó là quan trọng như trải nghiệm ăn uống. Sự ăn không chỉ thỏa mãn đời sống vật dục tất yếu, bình thường và lành mạnh mà còn là văn hóa, hồn vía, là tâm tình, kỷ niệm, là da diết muôn vàn, đến nỗi một người Quảng Trị xa xứ như ký giả Nguyễn Linh Giang dường như cứ luôn mang mang tâm trạng hồi cố, hoài niệm theo Bốn mùa thương nhớ (tập tản văn, NXB Thanh Niên, 2024).

Ký ức chiến tranh trong truyện ngắn Văn Xương

23/12/2024 lúc 17:04

Văn Xương (tên thật Nguyễn Văn Bốn) không phải là một tác giả xuất hiện sớm và có thành tựu sáng tác nổi bật ở Việt Nam. Anh sinh năm 1959 và thuộc lớp những người cầm bút của thời kỳ đổi mới. Những truyện ngắn đầu tiên của anh được giới thiệu trên một số tạp chí, báo địa phương và trung ương khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã lùi xa.

Theo những bước quân hành

23/12/2024 lúc 17:00

Chủ đề người lính là một đề tài lớn, xuyên suốt trong dòng chảy văn học cách mạng Việt Nam và kéo dài đến hôm nay. Đó là một hiện thực khách quan bởi lịch sử đất nước gắn với trường kỳ kháng chiến; và khi xây dựng cuộc sống mới, thì người lính luôn là lực lượng xung kích đi đầu, đồng hành cùng nhân dân. Có thể hình dung sự vẻ vang ấy qua những tác phẩm trong tập sách Vang mãi khúc quân hành (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2024).

Nắng trên thành cổ; Người lính hát

23/12/2024 lúc 16:56

Nắng trên thành cổ Một rêu phong trên tường thành muôn năm cũMột nguyện cầu dài trong chấp chới tiếng chuông xaMột thanh xuân giữa ầm

Trăng biên giới; Có một nơi xa nào

23/12/2024 lúc 16:54

Trăng biên giới Ánh trăng là ánh đènĐêm tuần tra biên giớiBước chân không biết mỏiTrăng làm bạn thân quen Trăng lên cao dốc đứngNhìn rõ những

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

27/12

25° - 27°

Mưa

28/12

24° - 26°

Mưa

29/12

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground