Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế tổ chức một chuyến đi thực tế dài ngày tại Tổng Công ty Cao su Đồng Nai. Tôi làm trưởng đoàn, phó đoàn là nhà nghiên cứu phê bình Phạm Phú Phong - nguyên giảng viên khoa Văn, Đại học Khoa học (thuộc Viện Đại học Huế). Vốn quan hệ thân thiết với Tổng giám đốc Đỗ Minh Tuấn, anh Phạm Phú Phong có dịp ghé thăm Tổng Công ty một vài lần nên hiểu biết khá tường tận về Tổng Công ty. Trước khi lên đường, ngồi tại phòng đợi sân bay Phú Bài, anh Phong tranh thủ phác qua vài nét về Tổng Công ty Cao su Đồng Nai để chúng tôi nắm sơ bộ. Tôi đặc biệt lưu tâm câu chuyện một phụ nữ được Ban lãnh đạo Tổng Công ty đề bạt từ tổ trưởng lên làm giám đốc. Trong đầu tôi bắt đầu hình thành kế hoạch tìm hiểu về nhân vật khá đặc biệt này. Thú thực, lâu nay tôi có hơi nghi ngờ về sự thăng tiến chóng mặt của một vài nữ quan chức nhà nước. Bởi không ít trường hợp chị em được các nhân vật quyền thế nâng đỡ, mà phần lớn là những chị em có chút nhan sắc.
Buổi gặp mặt đầu tiên tại phòng tiếp khách của Tổng Công ty ở phường Xuân Lập, thành phố Long Khánh, tôi được xếp ngồi cạnh Tổng giám đốc Đỗ Minh Tuấn. Tôi hỏi đùa anh: Nghe nói Tổng giám đốc có nâng đỡ một phụ nữ từ tổ trưởng lên làm giám đốc phải không? Tuấn cười: Chút nữa chị ấy sẽ đến, nhà thơ xem tôi có nâng đỡ nổi chị ấy không nghe. Tuấn vừa nói xong thì một phụ nữ hơi đứng tuổi, cao to, mắt đeo kính sáng, ăn mặc gọn gàng bước vào. Chị tươi cười bắt tay mọi người. Tổng giám đốc Tuấn ghé tai tôi nói nhỏ: Chị ấy đó, nhà thơ đến nâng chị ấy thử xem. Tôi cười: Chị ấy cao to thế, cả tôi và Tuấn chắc cũng không nâng nổi. Qua giới thiệu của Tổng giám đốc Đỗ Minh Tuấn, tôi được biết chị ấy tên là Hương, hiện đang làm giám đốc nông trường cao su Cẩm Mỹ.
Sáng hôm sau, tôi và phó đoàn Phạm Phú Phong hội ý chớp nhoáng, phân công anh chị em trong đoàn về các nông trường: Cẩm Đường, Long Thành, Bình Lộc, An Viễng tìm hiểu viết bài. Tất nhiên là tôi chọn nông trường Cẩm Mỹ - nơi chị ấy đang làm giám đốc.
Ăn sáng xong, đoàn chúng tôi chia tay nhau. Xe của Tổng Công ty đưa tôi đến nông trường Cẩm Mỹ, cách phường Xuân Lập, thành phố Long Khánh chừng 30 km. Cái tên Cẩm Mỹ gợi cho tôi nhớ đến thôn Cẩm Vân ở Lệ Cẩm, Thạch Thành, Thanh Hóa - nơi khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh sơ tán thời chiến tranh. Thôn Cẩm Vân ở ven sông Mã với những bãi ngô xanh mướt nối tiếp nhau. Thời sinh viên, tôi sống ở Cẩm Vân trọn hai năm với bao kỷ niệm khó quên. Dọc đường đến Cẩm Mỹ không phải những bãi ngô mà là những rừng cao su bạt ngàn. Tôi thích thú ngắm nhìn những hàng cao su thẳng tắp, cành lá giao nhau. Ánh sáng ban mai xuyên qua tầng lá in lên thảm cỏ như những chùm hoa nắng lung linh. Rừng cao su ngay sát đường, nên tôi có thể nhìn thấy rõ những dòng mủ màu trắng như những dòng sữa chảy vào những chiếc bát màu nâu. Tôi đọc cho chú lái xe nghe mấy vần thơ vừa vụt đến trong đầu: Quanh thân cây, mủ ứa trào / Ngàn dòng sữa trắng chảy vào bát nâu / Nắng dưới cỏ, nắng trên đầu / Một rừng hoa nắng cùng nhau vui đùa... Chú lái xe gật gù khen hay, làm tôi phổng cả mũi.
Ban lãnh đạo nông trường Cẩm Mỹ bố trí tôi ăn nghỉ tại một ngôi biệt thự nhỏ nhắn, xinh xắn. Chung quanh ngôi biệt thự là những bãi cỏ mềm mại với những trâu, voi, ngựa… được tạc bằng đá, trông như thật. Khu công viên thu nhỏ rợp bóng cây này nằm ngay cạnh trụ sở nông trường. Chị ấy hẹn 9 giờ sẽ trao đổi với tôi về tình hình nông trường tại phòng làm việc của chị. Đúng giờ hẹn, tôi đến, thấy chị đang cầm điện thoại di động điều khiển từ xa với chất giọng miền Trung đặc sệt. Tiếp tôi là hai phó giám đốc Lê Minh Tuấn và Nguyễn Văn Thịnh. Bên tách trà bốc khói, hai anh cho tôi biết những nét tổng quát về nông trường. Nông trường Cẩm Mỹ đang quản lý 2.268 ha cao su. Sản lượng kế hoạch từ năm 2017 - 2022 là 21.729 tấn. Nông trường đã khai thác được 23.149,6 tấn, vượt 6,54% kế hoạch. Tổng số lao động nông trường đến nay là 511 người, tỉ lệ lao động là người đồng bào dân tộc chiếm 21%. Thu nhập bình quân người lao động vào thời điểm này trung bình 8,7 triệu đồng/người/tháng… Khoảng chừng 30 phút, sau khi thu xếp công việc tạm xong, chị ấy mới dành cho tôi một khoảng thời gian quý hơn vàng của chị. Chỉ trong vòng chưa đến một tiếng đồng hồ chuyện trò với chị, tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Đầu tiên là cái tên Hương. Những phụ nữ mà tôi quen biết từ trước đến nay có đến hàng chục cô tên Hương. Thời sinh viên tôi kết thân với nàng Thu Hương, quê Nghi Lộc, Nghệ An. Về dạy trường Trưng Trắc Huế (giờ đổi thành trường Hai Bà Trưng), tôi ở cùng khu tập thể với cô giáo Thanh Hương. Lớp chuyên văn mà tôi làm chủ nhiệm có cô học trò mảnh mai, xinh đẹp tên Lan Hương… “Hương” là từ Hán - Việt. Người Việt sử dụng từ “hương” với nhiều nghĩa khác nhau. Phần lớn những cô gái tên Hương tôi quen biết đều có nghĩa là mùi thơm: Thu Hương là mùi thơm của mùa thu, Thanh Hương là mùi thơm thanh thanh, Lan Hương là mùi thơm của hoa lan, Xuân Hương là mùi thơm của mùa xuân, Quế Hương là mùi thơm của hoa quế… Nhưng cái tên Hương của nữ giám đốc nông trường Cẩm Mỹ mà tôi đang tìm hiểu thì mang nghĩa khác. Tên đầy đủ của chị ấy là Lê Thị Hoài Hương. Hoài là nhớ. Hương ở đây có nghĩa là quê hương - nơi cư trú lâu đời của tổ tiên ông bà. Cố hương là quê cũ, hồi hương là trở về quê hương, tha hương là lang bạt xa quê, còn hoài hương có nghĩa là nỗi nhớ quê hương.
Chị ấy kể: Cha mẹ chị có tám người con. Chị là con út. Trước 1975, cha chị bị điều đi quân dịch, mang theo cả nhà vào Bình Định. Đời lính chiến nay đây mai đó. Mỗi năm cha chị ghé thăm vợ con một đôi lần. Nỗi nhớ quê hương Quảng Trị luôn ám ảnh, giày vò cha chị. Được tin mẹ chị có bầu đứa con thứ tám, cha chị viết thư căn dặn: Nếu sinh con trai thì đặt tên Lê Quang Hoài Hương. Nếu sinh con gái thì đặt tên là Lê Thị Hoài Hương. Không ngờ cái tên do cha chị đặt ứng vào cuộc đời của chị. Từ năm 12 tuổi chị đã phải rời quê hương vào Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai học hành, làm ăn sinh sống cho đến tận bây giờ. Chị xem đó là lời nhắc nhở thiêng liêng của người cha xấu số: Đừng bao giờ quên gốc rễ, quê hương bản quán của mình. Tuy ở xa và bận trăm công nghìn việc, thỉnh thoảng chị vẫn tìm cách thu xếp về thăm anh chị em, bà con láng giềng, thắp hương bàn thờ tổ tiên và viếng mộ cha mẹ. Lần chị về quê gần nhất là vào đầu năm 2023.
Chị cho tôi biết quê chị ở thôn Thượng Xá, xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Hèn gì giọng chị đặc sệt miền Trung. Đúng là “hương âm vô cải” (giọng quê không thay đổi).
Chị Lê Thị Hoài Hương quê Quảng Trị, hiện là Giám đốc nông trường cao su Cẩm Mỹ (Đồng Nai) - Ảnh: NVCC
Tôi có những người bạn khá thân thiết quê Quảng Trị như nhà thơ Nguyễn Văn Dùng, nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng, nhà thơ Võ Văn Hoa… Em gái tôi lấy chồng Quảng Trị, con trai tôi lấy vợ người Quảng Trị. Bởi vậy, Quảng Trị hết sức thân thiết, gần gũi với tôi. Người Quảng Trị chất phác, thật thà, đặc biệt là rất giàu tình cảm. Cựu học sinh chuyên Quốc Học Huế ở Quảng Trị năm nào cũng mời thầy cô về thành phố Đông Hà họp mặt. Huyện Hải Lăng - vùng quê có nhiều di tích lịch sử văn hóa lâu đời - nằm ở phía Nam tỉnh Quảng Trị. Trải qua bao biến cố thăng trầm, với đức tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo đã hình thành cho con người Hải Lăng một bản lĩnh không chịu khuất phục trước khó khăn, gian khổ, để vượt lên chiến thắng thiên tai, địch họa. Chị Lê Thị Hoài Hương đã thừa hưởng những đức tính quý báu ấy của con người Hải Lăng. Chị tuổi Dần (sinh năm 1974), bằng tuổi con trai đầu của tôi. Năm nước nhà thống nhất (1975), chị mới một tuổi. Lên hai tuổi chị mồ côi cha (cha chị mất năm 1976), một mình mẹ chị nuôi tám đứa con đang tuổi ăn, tuổi học. Hoàn cảnh của gia đình chị cũng gần giống hoàn cảnh của gia đình tôi. Mẹ tôi mất năm 1965 do bị lạc đạn. Bố tôi gà trống nuôi bảy đứa con ăn học. Mấy anh em tôi phân nhau: đứa lên rừng kiếm củi, đứa xay giã dần sàng, đứa đội bánh chưng đi bán dạo… đỡ đần giúp bố. Bởi vậy, khi nghe chị kể hoàn cảnh gia đình chị, tôi hết sức đồng cảm. Đúng mười năm sau (1986) lại thêm một tai họa giáng xuống gia đình chị. Mẹ chị không may lâm bệnh hiểm nghèo qua đời. Vậy là mới 12 tuổi chị đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhắc lại những tháng ngày tang thương ấy, qua cặp kính trắng, tôi thấy chị rơm rớm nước mắt. Cứ hình dung cảnh mấy chị em chị ấy, đầu đội khăn tang, quỳ lạy trước mồ cha mẹ trong làn khói nhang nghi ngút, tôi cảm thấy tim mình buốt nhói.
Người đưa Hương vào Trảng Bom, Đồng Nai nuôi ăn học là chị Lê Thị Thuyên. Cả hai vợ chồng chị Thuyên đều là công nhân cao su. Ngoài giờ học, Hương nấu cơm, rửa bát, quét nhà phụ giúp anh chị. Thỉnh thoảng Hương lẽo đẽo theo anh chị đi lô, say mê đứng xem anh chị cạo mủ cao su. Ba năm học Trung học phổ thông, những dịp nghỉ hè, Hương thỉnh thoảng đi lô với chị Thuyên. Chị Thuyên hướng dẫn cho Hương tư thế đứng, cách cầm dao cạo mủ, độ sâu của mũi dao khi rạch vào vỏ cây… Để giảm bớt gánh nặng cho anh chị Thuyên và tập sống tự lập, đầu năm 1992, Hương quyết định nộp đơn xin làm công nhân cao su ở nông trường Trảng Bom. Vào cuối năm đó, chị được vào biên chế. Chị vẫn nhớ như in cái cảm giác sung sướng khi nhận tháng lương đầu tiên. Hương lập gia đình năm 1995 với anh Đào Văn Chính cùng quê Quảng Trị. Anh cũng là công nhân cạo mủ cao su ở nông trường Trảng Bom. Con đường “quan lộ” của Hương khá thông thoáng: Năm 1994, chị được chỉ định làm tổ trưởng. Năm 2017, chị được bổ nhiệm làm phó giám đốc nông trường Trảng Bom. Tháng 4/2019, chị được “thăng chức” giám đốc. Tháng 11/2019 nông trường Trảng Bom sáp nhập với nông trường An Viễng (lấy tên nông trường An Viễng), chị tiếp tục giữ chức giám đốc. Tháng 6/2022, chị được điều động về làm giám đốc nông trường Cẩm Mỹ cho đến giờ. Điều mà chị quan tâm nhất lúc được bổ nhiệm làm giám đốc là tìm cách nâng cao chất lượng vườn cây, chất lượng lao động và thu nhập ổn định để đơn vị phát triển một cách bền vững. Muốn vậy, không được buông lỏng quản lý, phải thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của anh chị em công nhân, có biện pháp động viên kịp thời… Đó chính là bí quyết thành công của chị.
Chia tay chị, trở về ngôi biệt thự nhỏ nhắn, xinh xắn. Trưa hôm ấy tôi không sao ngủ được. Phần xót thương cho hoàn cảnh không may của gia đình chị. Phần cảm phục nghị lực, ý chí vươn lên phi thường của chị. Năm 2012, lúc đó chị đã có hai con và sắp đến ngưỡng 40. Phần lớn phụ nữ đến ngưỡng đó đã an phận thủ thường, nhưng chị ấy thì không. Chị vừa làm việc, vừa chăm con, vừa theo học Trường đại học Lâm nghiệp 2 Đồng Nai. Năm 2017, biết chị có bằng tốt nghiệp đại học, Ban lãnh đạo Tổng Công ty có cơ sở bổ nhiệm chị làm phó giám đốc. Với năng lực thực sự của mình, chị cứ thế mà thăng tiến, chẳng cần ai nâng đỡ, cũng chẳng có ô dù nào cả. Phải thừa nhận Lãnh đạo Tổng Công ty Cao su Đồng Nai có “mắt xanh” khi lựa chọn được người vừa có đức, vừa có tài như chị Lê Thị Hoài Hương.
Trong đêm liên hoan chia tay về lại Huế, tôi ngồi cạnh Tổng giám đốc Đỗ Minh Tuấn. Anh kể cho tôi câu chuyện tình cờ phát hiện chị ấy. Đó cũng là điều hết sức bất ngờ. Trước năm 2017, anh chưa hề biết Lê Thị Hoài Hương là ai. Hôm cùng đoàn lãnh đạo Tổng Công ty về thị sát nông trường Trảng Bom, anh thấy một nữ công nhân đang cạo mủ nhưng túi áo trên lại có cuốn sổ và chiếc bút bi. Anh hơi lấy làm lạ. Đã từng thăm hàng trăm công nhân cạo mủ, anh chưa thấy ai mang theo bút và sổ tay bao giờ. Hỏi ra, anh mới biết chị ấy là Lê Thị Hoài Hương, làm tổ trưởng suốt 23 năm, rất có năng lực và trách nhiệm. Chị ấy sắp tốt nghiệp đại học. Sáng hôm đó, có một công nhân trong tổ bị ốm, chị phải cạo mủ thay để bảo đảm sản lượng của tổ. Thì ra là thế! Từ đó, anh luôn quan tâm theo dõi từng việc làm của chị ấy. Khi biết chị ấy đã có bằng đại học, anh đề xuất với Ban lãnh đạo Tổng Công ty bổ nhiệm chị ấy làm phó giám đốc, rồi giám đốc. Kể từ khi chị ấy về làm giám đốc nông trường Cẩm Mỹ, sản lượng ngày một tăng. Đúng là “một người lo bằng kho người làm”!