S |
ự bình yên của Đất Nước đang bị đe dọa bởi thế lực bành trướng phương Bắc và cảm giác giặc dữ đang ở trong sân nhà ta hiển hiện ngày càng rõ rệt, trần trụi hơn. Cuộc chiến tranh Việt - Trung gần nhất là năm 1979 và có lẽ chưa hoàn toàn đúng thế nếu ta cộng thêm trận đổ máu ở Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988. Và, mùa hè năm 2014, Trung Quốc lại thêm lần nữa gây hấn bằng cách ngang ngược đưa giàn khoan Hải Dương 981 đến thềm lục địa nước ta với sự bao bọc, hộ tống của nhiều tàu chiến, tàu hải cảnh, hải giám.
Chưa có gì thay đổi cả cái máu muốn thống trị những quốc gia láng giềng bé nhỏ hơn mình. Cũng vẫn cứ vậy thôi thói quen ngang ngược, cậy lớn mạnh để hiếp đáp, chèn ép người nhỏ yếu, bất chấp đạo lý, tín nghĩa. Nếu như xưa kia, họ đem lý lẽ đặt lên cung tên, gươm giáo, lưng ngựa chiến thì nay con cháu, hậu duệ của những hoàng đế Trung Hoa lại lấy luận điệu cài vào súng pháo, máy bay, tàu thủy...
Xét về hệ tư tưởng thì cả Trung Quốc và Việt
Hèn chi, cỗ xe hữu nghị Việt - Trung cứ ì ạch suốt trên con đường chênh vênh, gập ghềnh trong nhiều thập kỷ qua. Mối bang giao hai quốc gia phải trải qua thử thách này đến thử thách khác, ấm nồng chưa được bao lăm lại chực nguội lạnh và nguy cơ tan vỡ không phải không có.
Lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của dân tộc ta đã chứng tỏ rằng nguy cơ chiến tranh và xung đột đến từ nước láng giềng phương Bắc lớn hơn và nhiều hơn cả. Một nghìn năm Bắc thuộc cộng với những cuộc dấy binh mịt mờ khói bụi của các triều đại hùng cường Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh nối nhau xâm lược nước ta là minh chứng khó chối cãi về điều tôi vừa nói. Cái vị thế ở cạnh nước lớn, lại là quốc gia luôn coi mình là trung tâm của thiên hạ bao giờ cũng éo le, chông chênh; vô cùng éo le, chông chênh. Tựa như một thân cây mọc dưới chân núi vậy. Bóng núi có thể che khuất mặt trời và đất đá đổ xuống lúc nào khó lòng đoán định được. Nói một cách cụ thể, thì dân ta đã phải hứng đủ mọi tai họa đến từ nước Trung Hoa rộng lớn này. Từ thế kỷ mười ba, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn viết trong Hịch tướng sĩ: “...ta cùng các ngươi sinh ở đời nhiễu nhương gặp phải buổi gian nan này, trông thấy những ngụy sứ đi lại rầm rộ ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, lại cậy thế Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, ỷ thế Vân Nam vương để vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng, khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau...”. Đến thế kỷ mười lăm, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo có đoạn: “Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược/ Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh./ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,/ Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ./ Chước dối đủ muôn nghìn khóe,/ Ác chứa ngót hai mươi năm./ Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn,/ Nặng khóa liễm vét không sơn trạch/ Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,/ Nào lưới bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả ...”
Chiến tranh - Hòa bình - Chiến tranh, dường như số phận dân tộc mình buộc phải gắn với cái vòng định mệnh luẩn quẩn rất tệ hại này. Ngẫm lại, số ngày dân tộc Việt
Dân tộc ta không mong chiến tranh để trở thành anh hùng dũng sĩ. Những bà mẹ Việt
Ước ao thanh bình trở thành hiện thực thật nhọc nhằn và cũng hiếm hoi lắm khi chiến tranh cứ triền miên đến với đất nước này. Dẹp xong giặc Bắc lại long đong chống trả giặc Tây, chiến trường chưa tan mùi khói súng lại phải đương đầu với giặc Bắc. Thế hệ này phải nối tiếp thế hệ khác đánh giặc. Lớp người này phải kế tục lớp người khác cầm vũ khí diệt thù. Số phận dân tộc mình là vậy sao, chiến đấu - chiến đấu - chiến đấu? Một câu hỏi rất dễ trả lời nhưng không ai muốn trả lời vì nó nghiệt ngã và cay đắng quá. Chiến tranh không bao giờ là trò đùa cả. Biển Đông mặn thêm bởi máu và nước mắt dân tộc Việt
Trong những ngày biển Đông dậy sóng này, tôi tin rằng rất ít người không nghĩ tới chiến tranh. Súng pháo trên những hạm tàu của “đồng chí” ta ở Hoàng Sa đã mở bạt. Trước đó, “đồng chí” ta đã từng dùng súng 37 li bắn xối xả vào những người lính công binh Việt
Trong những lúc éo le này mới cảm phục, tự hào thêm khí phách bản lĩnh của ông cha ta biết bao nhiêu. Thời ấy, thế giới chưa “phẳng”, tức dân tộc Việt hầu như không có sự ủng hộ rộng rãi của nhân loại như bây giờ. Thế và lực của ta bao giờ cũng yếu hơn quân xâm lược. Nhưng ông cha ta đã sáng suốt vận dụng quy luật Thiên - Địa - Nhân để tạo ra Thời - Lợi - Hòa, lúc nhẫn nhịn hội đàm, khi dốc sức chiến đấu, lui - tiến tùy cơ, ứng biến khôn lường. Cốt lõi của chiến tranh giữ nước vẫn là lòng dân cố kết thành một khối vững chãi, gươm chém không đứt, giáo đâm không thủng, đạn bắn không tan, trong ngoài, trên dưới, tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào. Cùng nếm mật nằm gai, cùng dốc lòng đánh giặc, người trước ngã người sau xông lên, vì nước vì dân nên cái chết cũng nhẹ nhàng như giấc ngủ sau khi cày xong thửa ruộng. Đừng nghĩ dân Việt này không ham sống. Thành ngữ Việt có câu: Người sống đống vàng; mạng người mới là quý hơn tất thảy. Nhưng, khi Tổ quốc lâm nguy thì dân Việt này cũng dám “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Xưa đã thế và nay cũng thế thôi. Kẻ mưu toan khuất phục đất nước này đừng quên khí phách, bản lĩnh ấy của dân tộc Việt
Tôi nghĩ: giá như đừng có những chiến thắng ấy, chắc chắn sẽ tốt hơn cho dân tộc Việt
Nghĩ về số phận dân tộc Việt
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
N.H.Q