Không phải vì cái tên Cam Lộ mang hàm nghĩa sương ngọt hay có người giải thích nó là biến âm của nước Cam Lồ nhà Phật mà mỗi lần về quê tôi luôn có cảm giác lần trở lại con đường tuổi thơ, được tắm gội trong miền ký ức cỏ lau dọc ven đường 9. Cam Lộ, trong dòng chảy lịch sử dân tộc, nằm ở trung tâm của mảnh đất Quảng Trị từng được mệnh danh Ô châu ác địa. Suốt hàng mấy trăm năm, khi bước chân tiền nhân khai mở xứ Đàng Trong, nơi đây hứng chịu đằng đẵng nhiều cuộc chiến tranh. Đây cũng là vùng đất nắng gió khắc nghiệt đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên quê gốc ở vùng này từng thốt lên: Ơi gió Lào ơi, ngươi đừng thổi nữa / Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ / Những đồi sim không đủ quả nuôi người…
Nếu thành phố Đông Hà là tâm điểm trên bản đồ hành chính tỉnh Quảng Trị thì Cam Lộ là cửa ngõ phía tây bắc nối thành phố Đông Hà lên vùng cao Trường Sơn, nơi có cửa khẩu Lao Bảo thông thương với nước bạn Lào. Cũng như nhiều miền quê khác trên đất Quảng Trị, việc hình thành những làng ấp đầu tiên ở đây là vào khoảng đầu thế kỷ XI và do những cư dân xứ Đàng Ngoài theo các vị tướng công nam tiến mở mang bờ cõi. Tuy nhiên, nhiều nhà sử học cho rằng danh xưng Cam Lộ xuất hiện lần đầu vào năm 1553 trong tác phẩm “Ô châu cận lục” của học giả Dương Văn An. Trong tác phẩm này ghi rõ: Làng Cam Lộ là 1 trong 27 làng thuộc tổng An Lạc, huyện Đăng Xương. Sau hơn 200 năm kể từ khi “Ô châu cận lục” có những dòng vắn tắt về làng Cam Lộ, năm 1776, Lê Quý Đôn lúc bấy giờ giữ chức Hiệp trấn Tham tán quân cơ Thuận Hóa có chuyến tuần du vùng Dinh Cát tức Ái Tử ngày nay đã ghé qua Cam Lộ và ghi lại trong “Phủ biên tạp lục”, nội dung đại ý: Cam Lộ có đường núi đi sang Ai Lao, đường cũng bằng phẳng, dân cư liền nhau… Xã Cam Lộ huyện Đăng Xương ở thượng lưu sông Hiếu Giang, phía đông thông với Cửa Việt, phía tây giáp với các làng bản người Ai Lao, đường sá của dân Man đều quy tụ vào đây, xa thì có nước Vạn Tượng, phủ Trấn Ninh, châu Cung Hợp...
Ngay từ thời nhà Nguyễn, về mặt địa lý, Cam Lộ là yếu địa, phên giậu phía tây bắc tỉnh Quảng Trị. Nơi đây, ngoài đường bộ còn có sông Hiếu, thủy lộ giao thương mua bán các xứ trong vùng và sang tận Ai Lao. Chợ Phiên từng được ví Tiểu Trường An, đóng vai trò là trung tâm thương nghiệp, hàng hóa sầm uất bao gồm voi ngựa, lâm thổ sản từ vùng cao đưa về, sản vật nông nghiệp tại chỗ cũng như muối, cá, các loại thủy hải sản từ miền biển Cửa Việt mang lên. Ngôi chợ được “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn ghi nhận: Người buôn các xã thường mang mắm muối, cá khô, nồi sắt, nồi đồng, thoi bạc, hoa xuyến đến đất người Man đổi lấy nếp, gạo, gà, trâu, gai, sáp, mây, dó, vải, màn, thuê voi chở về chợ Phiên Cam Lộ để bán.
Đầu thế kỷ 20, năm 1904, người Pháp nhận thấy vị trí đắc địa của miền tây tỉnh Quảng Trị nên cho khởi công xây dựng Con đường thuộc địa số 9 ngày nay là Quốc lộ 9. Bắt đầu từ đây, Cam Lộ trở thành vùng đất quan trọng về mọi mặt không chỉ đối với Quảng Trị mà còn cho cả khu vực miền Trung, đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước.
Người Cam Lộ tự hào bởi trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc, thời kỳ nào nơi đây cũng được chọn làm thủ phủ, ví như kinh đô kháng chiến. Thời Pháp thuộc là Thành Tân Sở nằm ở Cùa, vùng đất đỏ bazan nổi tiếng với vị hồ tiêu thơm nồng. Ngày nay, dấu tích Thành Tân Sở không còn nhiều nhưng những ghi chép lịch sử cũng đủ cho chúng ta hình dung về quy mô và vị thế quan trọng trong việc tạo ra ảnh hưởng, từ đó khởi phát ngọn lửa yêu nước Cần Vương. Vào cuối thế kỷ 19, khi quân Pháp ép buộc nhà Nguyễn ký Hòa ước Giáp Tuất năm 1874, ngay sau đó vua Tự Đức đã lệnh cho các địa phương ở miền Trung xây dựng các sơn phòng nhằm vào kế hoạch kháng Pháp lâu dài. Năm 1883, triều vua Kiến Phúc, Nha sơn phòng Quảng Trị, tiền thân của Thành Tân Sở được khẩn trương xây dựng dưới sự chỉ huy, đôn đốc của quan Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và hoàn thành trong khoảng thời gian ngắn. Công trình này có tầm quan trọng đặc biệt bởi sách “Đại Nam thực lục chính biên” chép rằng Cơ Mật Viện của triều đình Huế xác định: Sơn phòng Quảng Trị có thể làm hậu lộ cho Kinh đô. Phó Giáo sư, Tiến sĩ sử học Đỗ Bang cho biết: “Vào thời điểm thiên đô ra Tân Sở vào năm 1885, hạm đội Pháp có mặt ở Đà Nẵng và Đồng Hới chờ bắt vua Hàm Nghi và phe chủ chiến thì con đường thượng đạo từ Tân Sở lên Lào để ra Bắc, vào Nam là sinh lộ duy nhất của triều đình kháng chiến nhằm duy trì hoạt động yêu nước…”. Tuy tồn tại ngắn ngủi, nhưng tại Tân Sở vào tháng 7 năm 1885, chỉ sau ba ngày xa giá từ kinh đô Huế về đây, vua Hàm Nghi đã kịp phát Dụ Cần Vương lần đầu tiên, làm dấy lên phong trào kháng Pháp rộng khắp trên cả nước.
Lễ rước Long vị vua Hàm Nghi về Di tích thành Tân Sở - Ảnh: Thanh Linh
Có thể nói, ngọn lửa yêu nước từ phong trào Cần Vương thời kháng Pháp đã đắp bồi thêm vào truyền thống đấu tranh của đất và người Cam Lộ giai đoạn về sau. Trước và trong Cách mạng mùa thu tháng Tám, nhiều làng xã trên mảnh đất này đã nhất tề đứng dậy, giành chính quyền về tay nhân dân. Ngôi miếu thuộc xã Cam Tuyền là nơi thờ thần linh của dân làng An Mỹ. Vào tháng 8 năm 1945, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc tổng khởi nghĩa của Hồ Chủ tịch, quân lệnh khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và chỉ thị của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Quảng Trị kêu gọi toàn dân trong tỉnh đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền, ngày 22/8/1945, tại ngôi miếu này Ủy ban khởi nghĩa huyện Cam Lộ đã có cuộc họp bàn kế hoạch chuẩn bị và phân công lực lượng về các địa phương chỉ đạo quần chúng. Từ đó, nhân dân các tổng trong địa bàn Cam Lộ đã hưởng ứng một cách sâu rộng và đã chuẩn bị chu đáo từ cờ, băng rôn đến giáo, mác, gậy tầm vông... kéo về huyện đường Cam Lộ giành chính quyền thắng lợi vào ngày 24/8/1945.
Nếu ví miền Trung như chiếc đòn gánh giữa hai miền Nam, Bắc thì Quảng Trị có thể xem như là điểm tì vai trên chiếc đòn gánh. Không hẳn ngẫu nhiên mà thời đất nước chia cắt, Quảng Trị cũng là vùng đất nằm dọc theo vĩ tuyến 17 nơi được chọn làm giới tuyến, phải gánh chịu nỗi đau ngày Bắc đêm Nam nặng nề và chiến tranh tàn phá ác liệt nhất. Riêng ở phía bờ nam thì Gio Linh và Cam Lộ luôn dày đặc các căn cứ quân sự và tiếng đạn pháo gần như không dứt suốt ngày đêm. Cuối năm 1971, các sư đoàn 304, 308, các trung đoàn 48 và trung đoàn 27 đã phối hợp tấn công đồng loạt hệ thống phòng thủ của đối phương như đồi Phu Lơ (cao điểm 544), đồi Ca rôn (cao điểm 241) và nhiều nơi khác như cao điểm 288, cao điểm 322, bên cạnh hướng chủ công tấn công thẳng vào huyện lỵ… Nhờ hiệp đồng tác chiến chặt chẽ, sự hưởng ứng của nhân dân Cam Lộ, chỉ sau 3 ngày từ 30 tháng 3 đến ngày 2 tháng 4 năm 1972, Cam Lộ đã được giải phóng. Chiến thắng này cũng đã mở màn và tạo điều kiện cho chiến dịch giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị.
Nói đến chiến thắng giải phóng Cam Lộ vào năm 1972 không thể không nhắc đến nơi được xem là kinh đô kháng chiến thứ hai sau Thành Tân Sở, đó là Khu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Cuối năm 1972, phần lớn Quảng Trị được giải phóng, tiếp đến đầu năm 1973, Hiệp định Paris ký kết, cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ và đó là điều kiện để Cam Lộ được chọn làm nơi xây dựng Khu Chính phủ Cách mạng lâm thời vào tháng 5 năm 1973. Tại đây ngày 6/6/1973, Chính phủ Cách mạng lâm thời đã làm lễ ra mắt nhân dân trong buổi lễ mít tinh long trọng, trước sự chứng kiến của đông đảo phóng viên báo chí trong và ngoài nước. Đại biểu của 19 nước anh em bè bạn khắp năm châu đã tới dự và đại sứ của các nước đã làm lễ trình quốc thư. Cũng tại đây, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã cử nhiều đoàn đại biểu đi thăm viếng, đặt quan hệ ngoại giao với một số nước trên thế giới để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ về mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam.
Phòng trưng bày hình ảnh tư liệu trong khu di tích Trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở Cam Lộ - Ảnh: Hồ Thanh Thoan
Sau ngày giải phóng, Cam Lộ xác xơ rừng núi, vườn ruộng tan hoang bởi đạn bom cày xới nhưng lại ngập tràn niềm vui của người dân được sống trong hòa bình. Gỡ từng mảnh bom quả đạn, dọn từng góc vườn hoang hóa, chính quyền và người dân nơi đây luôn mang theo khát vọng dựng xây quê hương xứng đáng với truyền thống văn hóa - lịch sử hàng trăm năm để lại. Hơn nửa thế kỷ sau ngày giải phóng, Quốc lộ 9 đi ngang qua miền quê Cam Lộ đã trở thành con đường xuyên Á, huyết mạch của Hành lang kinh tế Đông - Tây nối dài từ Myanmar sang Thái Lan, qua Lào và về điểm cuối ở Việt Nam. Con đường này góp phần làm sáng lên bức tranh kinh tế - xã hội của Quảng Trị trong đó có miền quê Cam Lộ.
Nằm ở vị trí giao nhau giữa Quốc lộ 9 và đường Hồ Chí Minh, thị trấn Cam Lộ ngày nay đã thấp thoáng gương mặt đô thị hiện đại. Ngoài cơ sở hạ tầng được xây dựng khang trang trên cơ sở quy hoạch bài bản, nơi đây ngày càng đông vui, tấp nập mua bán bởi hàng hóa giao thương ở các nơi đổ về. Từ đây, hàng hóa tiêu dùng theo đường xuyên Á, hàng hóa nông sản miền tây Trường Sơn đổ về xuôi cũng như hàng hóa vùng xuôi, miền biển ngược lên vùng cao.
Là vùng bán sơn địa, Cam Lộ phát triển kinh tế bằng vào việc giải quyết bài toán chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Vùng đồng bằng kéo dài một dải từ Cam Tuyền về các xã Cam Hiếu, Cam Thủy, Thanh An… dựa trên canh tác truyền thống tiếp tục đẩy mạnh trồng các loại rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày. Nếu các xã vùng đồng bằng tập trung vào sản xuất lúa gạo, hình thành các vùng chuyên canh hoa màu thì vùng gò đồi lại tập trung vào việc trồng rừng và cây công nghiệp mang giá trị lợi nhuận cao. Hồ tiêu xứ Cùa từng nổi tiếng cả nước bởi vị thơm cay đặc trưng. Sử sách từng chép thời nhà Nguyễn, thương lái thường mua hồ tiêu nơi đây xuôi thuyền về Cửa Việt mang vào bán tận cả Sài Gòn - Lục tỉnh. Nhằm khôi phục thương hiệu hồ tiêu xứ Cùa góp phần phát triển kinh tế, hiện nay hàng trăm hộ gia đình ở hai xã Cam Chính, Cam Nghĩa đã hình thành vùng chuyên canh lên đến gần cả ngàn hecta. Bên cạnh hồ tiêu, cây cao su được xem là “vàng trắng” của vùng gò đồi. Sau khi trồng thử nghiệm, đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao, Cam Lộ hình thành vùng chuyên canh cao su rộng khắp nhiều xã. Từ những vườn cây cao su xanh tốt, nhiều hộ gia đình không chỉ thoát nghèo mà còn thực hiện giấc mơ đổi đời, trở thành triệu phú nông dân.
Từ xuất phát điểm rất thấp của vùng quê bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Cam Lộ đã có được những bước đi rất dài trong việc tạo dựng mô hình nông thôn mới. Không chỉ có kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, dựa vào thế mạnh từng vùng mà ngay cả các hộ gia đình cũng mạnh dạn đầu tư vào các mô hình mới như kinh tế nông trại, gia trại, sơn trại, ngành nghề, dịch vụ…v.v, thể hiện năng lực, tư duy làm ăn mới, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người dân. Có thể nói, chặng đường hơn 50 năm sau ngày quê hương giải phóng, Cam Lộ đã hiện thực hóa bức tranh nông thôn mới. Những vùng sâu, vùng xa heo hút, giao thông cách trở như vùng Cùa, Cam Tuyền ngày nay đã có hệ thống đường giao thông nông thôn thuận tiện, có điện thắp sáng, trường học và trạm y tế ở từng thôn xã.
Mới đây tôi về, uống trà thăm chơi các anh lãnh đạo huyện nhà. Nói là lãnh đạo nhưng là những người anh em, người bạn thế hệ với tôi. Một thế hệ như dấu gạch ngang giữa chiến tranh và hòa bình. Mỗi câu chuyện được kể ra đều không giấu được niềm tự hào. Mà không tự hào sao được bởi Cam Lộ là hình ảnh thu nhỏ, mang đầy đủ tính cách của đất và người Quảng Trị. Như tôi sinh ra, lớn lên ở đây, thường xuyên những chuyến đi về. Vậy mà mỗi lần quay trở lại vẫn thấy tâm hồn thêm một lần tắm gội trong miền ký ức Cam Lộ ngọt lành như sương.