Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 18/04/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Khúc ca Trường Sơn

 ...Tôi đã mấy lần vượt Trường Sơn vào Nam ra Bắc dưới mưa bom và cũng từng cùng đồng đội hát những khúc ca Ta vượt trên triền núi cao Trường Sơn / đá mòn mà đôi gót không mòn. Nhưng có lẽ lần vào thăm chiến khu Thừa Thiên sau ngày hiệp định Paris được kí kết là chuyến đi không còn bom đạn và có điều kiện thanh thản chiêm nghiệm nhất. Chúng tôi đến khu rừng già bên dòng suối có thác reo nơi trụ sở của Khu ủy, đêm cùng nhạc sĩ Trần Hoàn, nhà thơ Thanh Hải, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn Tô Nhuận Vỹ, nhà thơ Quang Hà đàm đạo. Anh Trần Hoàn được vợ gởi từ Hải Phòng cho một ít khô mực, nướng đãi chúng tôi cùng rượu gạo của đồng bào dân tộc K’Ho. Giữa rừng nhâm nhi miếng mực khô bên chén rượu gạo để nghĩ về Trường Sơn thật là thi vị. Nhạc sĩ Trần Hoàn cũng là người từng lên chiến khu Ba Lòng từ kháng chiến chống Pháp, nói chuyện mở đường anh lắc đầu: “Tôi cũng từng mở đường thời chống Pháp, từng lấy lá rừng lót làm chiếu ngủ, nhưng tôi xin ngả mũ tỏ sự khâm phục vì huyền thoại những con đường trên Trường Sơn như thế này, sau này người Mỹ chỉ cần hiểu đúng đường Trường Sơn, sẽ hiểu vì sao họ thua chúng ta”.

Từ phải qua: nhà văn Trình Quang Phú, nhạc sỹ Trần Hoàn, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn Quang Hà, nhà thơ Thanh Hải tại chiến khu Trị Thiên (Trường Sơn Đông) xuân 1973

Từ phải qua: nhà văn Trình Quang Phú, nhạc sỹ Trần Hoàn, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn Quang Hà, nhà thơ Thanh Hải tại chiến khu Trị Thiên (Trường Sơn Đông) xuân 1973

Trên đường Trường Sơn Đông đầy bụi đỏ, xe chúng tôi bon bon phía trước và vẫn gặp những tốp thanh niên xung phong sửa đường, giữ đường, sẵn sàng đánh trả kẻ thù. Lúc ấy kẻ địch vẫn đang lấn chiếm, Quảng Trị vẫn nổ súng, chiến sĩ ta vẫn hi sinh, Trường Sơn vẫn sẵn sàng. Cuối ngày chúng tôi xuống sông Đakrông để tắm xả bụi, nhìn nhau vui thật, ai cũng như đeo mặt nạ vì cả tóc, mặt đều phủ đầy bụi đỏ, chỉ hai con mắt đen và hàm răng trắng là còn nguyên. Mỗi người nhảy xuống là một khoảng nước sông đỏ ngầu. Cá quây quanh chúng tôi để rỉa đất. Chúng tôi lấy áo, lấy quần cột hai ống làm bẫy bắt cá, một lúc sau có cả mớ. Tối đó, cá nướng với rau rừng Trường Sơn, dù gạo mục cũng vẫn thấy thơm tho, ngon ngọt.

Kẻ thù rất sợ màu xanh của Trường Sơn vì rừng che chắn cho xe, cho bộ đội, là căn cứ hậu cần của ta. Bao nhiêu binh trạm, kho gạo, kho súng đạn được cất giấu trong đó và có một thứ “vũ khí”, một “hậu phương” bất tận đó là rau Trường Sơn dù bom Napan liên tục trút xuống. Rau rừng tự nhiên thì vô kể. Ở Trị Thiên và Khu 5 nổi tiếng với rau lủi. Rau lủi cọng tím, lá nhọn khía răng cưa, có mùi thơm thuốc bắc rất dễ trồng và rất dễ ăn, nấu canh, xào, luộc đều được. Rau lủi có nơi gọi là rau bầu đất, hay kim thất như một vị thuốc Trường Sơn. Rồi các loại rau rất quen thuộc như rau má, cải trời, rau tàu bay, rau bồ ngót, măng tre, đặc biệt là cải xoong bên những vụng nước đọng ven bờ suối. Đoàn quân trước hái ăn phải gieo hạt xuống để cho người sau đến là có. Gặp mùa đậu xanh, đem hạt ngâm rồi cho vào lon ghi-gô có đục lỗ đeo trên ba lô, ba ngày đổ ra sẽ có giá trắng tinh, cọng dài rất ngon ngọt. Trong sổ tay tư liệu của tôi còn có rất nhiều loại rau như: lạc tiên, lá bép, rau dớn, lá bứa, lá nương, rau bò khai, cây đắng, húng vịt làm gia vị và cây chuối, nhất là chuối con, được bộ đội khai thác chế biến làm nhiều món ăn. Xuôi Trường Sơn vào đến Trung ương Cục, chiến khu Tây Ninh rau càng phong phú. Rau Nam Bộ có thể ăn sống rất thoải mái như rau xăng máu, rau mặt trăng, rau chòi mòi; các loại sộp, đọt choại, lá cóc, rau sao nhái mới nhìn giống như cần nước, luộc, xào rất ngon; mỗi mùa có những thứ rau khác nhau, nhưng không mùa nào thiếu rau ăn sống, rau nấu canh, rau xào, rau luộc, rau muối chua, rau làm gỏi, rau nấu cá… Rau rừng là thực phẩm của đất mẹ Trường Sơn để nuôi sống cán bộ chiến sĩ suốt nhiều năm tháng. Một nhà văn nói: Nếu được chọn, tôi sẽ chọn cây rau rừng Trường Sơn để tặng danh hiệu Anh hùng.

Hôm sau nhà thơ Thanh Hải, Chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế đưa chúng tôi đến thăm và chung vui với đoàn văn công của Khu vừa đi phục vụ bộ đội về. Các ca sĩ gặp các nhà thơ thì vui như pháo nổ. Chia tay bên bờ suối các cô rất bịn rịn. Thanh Hải nói vui: “Chúng ta bị thương hết rồi”, mọi người cười ồ. Anh Tạ Bảo, Giám đốc Nhà xuất bản Thanh Niên đi trong đoàn chưa hiểu, thật thà hỏi: “Sao lại bị thương?”. Một cô trong đoàn văn công nghe được liền nói to: “Không bị mô mà được đó”. Lúc đó Tạ Bảo mới hiểu ra, đồng tình: “Được chi mô, bị thương là đúng”. Hoàng Phủ Ngọc Tường cười: “Vết thương ni khó chữa lành nghe”.

Tôi đã mấy lần gặp các cô gái Thanh niên xung phong gọn gàng quân phục, ngực đầy sức sống, vác trên vai cọc tiêu, cuốc xẻng phăng phăng ra trận địa. Tấm vải dù trên vai và mái tóc các cô bay trong gió như càng tăng thêm sự phơi phới của tuổi thanh xuân. Họ vừa đi vừa hát Trường Sơn ơi, ta đi trong gió, ta đi trong mưa, từng ngày từng tháng, là từng bài ca (Huy Du). Họ yêu đời lạc quan như vậy đấy.

Trường Sơn là thế, hàng vạn nữ thanh niên tuổi mới mười tám, đôi mươi tình nguyện đi thanh niên xung phong, họ chưa một lần biết yêu và được yêu, trong trắng và lạc quan, nhưng can trường dũng cảm vô biên. Họ ở giữa Trường Sơn, chịu mọi hi sinh, sự hi sinh lớn nhất là tuổi thanh xuân, gác tất cả những cháy bỏng của tình yêu tuổi trẻ để đương đầu với bom đạn, với chết chóc, để yêu Trường Sơn, bám Trường Sơn, sống chết vì Trường Sơn. Tình yêu đó càng làm cho Trường Sơn sừng sững.

*

Một lần vào năm 1968 chiến tranh ác liệt, tôi dừng chân ở một binh trạm trên đường Trường Sơn và gặp ở đó một người lính già người Hải Dương quê hương kết nghĩa của tôi. Anh ở Trường Sơn ngay khi đường được mở, lặng lẽ âm thầm đưa đón hết đoàn này đến đoàn khác vào chiến trường đánh Mỹ. Tôi hỏi anh: “Kỉ niệm nào sâu sắc nhất về Trường Sơn của anh?”. Trầm ngâm một lúc, anh kể, khi đường Trường Sơn mới thông xe, anh được giao đi chọn chỗ cắm trạm, một lần trong khu rừng vắng anh phát hiện một chiếc võng dù treo giữa hai cây to. Anh đột ngột dừng lại và hỏi: “Anh có biết tôi thấy gì không?” rồi đặt tay lên tim: “Tôi thấy một bộ xương nguyên vẹn. Người của ta, đồng chí ấy hi sinh chắc từ những năm đầu mở tuyến. Trên bộ xương còn một quyển sổ tay nhỏ và một cây bút khô mực, trang cuối cùng ghi: “Tôi kiệt sức rồi, không đi được nữa. Các đồng chí đi tiếp…”. Anh nhìn tôi rồi nói trong xúc động: “Đồng chí ấy hi sinh lặng lẽ vậy đó anh. Mấy năm nay tôi đi ngang đi dọc Trường Sơn, lúc nào cũng như nghe văng vẳng một lời nhắc của đồng chí ấy: “Các đồng chí đi tiếp”. Tôi khâm phục đồng chí ấy. Anh nghĩ xem, không một lời ca thán. Trong cơn sốt, đói và cái chết ập đến, anh ấy biết mình sẽ chết, nhưng vẫn rất thanh thản và gởi trọn niềm tin với đồng đội”. Nói đến đây anh trạm trưởng ôm vai tôi nghẹn ngào.

*

Nhà thơ Thanh Hải, đêm bên bếp lửa hồng đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện nhạc sĩ Văn Dung với cô gái Thì Thương ở đường 20 Quyết Thắng của Trường Sơn. Hôm ấy đoàn các nhạc sĩ được đưa đi thăm đại đội nữ thanh niên xung phong làm nhiệm vụ ở Đèo Mây của đường 20. Khách của các cô ở đây thường là những đoàn quân ra trận, những anh lái xe bị thương và thường nhất là khách không mời, đó là lũ máy bay Mỹ, là bom đạn. Cho nên khi được tiếp đoàn nhạc sĩ, các cô vui tươi, hớn hở, mặt ai cũng ửng đỏ, có món gì các cô cũng đem ra đãi, còn mời các anh ở lại ăn món cá nấu măng vừa kiếm được. Ngồi giữa các cô gái hồn nhiên, nụ cười và ánh mắt rạng rỡ, biết các cô đều tuổi 18 quê Quảng Bình nên Văn Dung liền hát bài Quảng Bình quê ta ơi. Các cô vỗ tay khen “anh hát hay quá, lần đầu tiên chúng em được nghe nhạc sĩ hát”. Văn Dung hỏi thăm cô gái ngồi cạnh: “Em tên gì?”, cô gái lỏn lẻn: “Em tên Nguyễn Thị Thi, chắc cha em yêu thơ nên đặt tên em như rứa”. Rồi nhìn Văn Dung cô nói: “Nhưng em thì xấu xí nên không có thi ca chi mô”. Văn Dung xúc động trước sự giản dị, chân chất của cô gái, liền ý nhị đùa: - Anh gọi em là Thường Thi nhé.

- Răng mà anh gọi rứa? - Im lặng một chút cô cười - có nghĩa là Thi bình thường phải không?

- Không, gọi Thường Thi là Thì Thương đó.

- À, nói lái. - Cả đội cười vui.

- Hay đó, anh đặt rứa may ra có anh mô qua đây thì thương em, em mong được một lần như rứa.

Cuộc giao lưu kết thúc vì đến giờ các cô lên đường. Đoàn nhạc sĩ xin theo lên Đèo Mây. Các cô đi rất nhanh, vừa đi lại vừa hát vang khúc ca Trường Sơn: Máu thắm đường ta đi lẫn mồ hôi rơi, tình quê tha thiết. Ta đi trong ánh lửa từ trái tim mình. Tiếng hát vượt trên ngọn cây, bay vút lên mây, cứ lanh lảnh, tự tin đầy sức sống. Văn Dung xúc động, một tứ thơ và những nốt nhạc vụt đến. Ôi cô gái Thì Thương, bao đêm em đi mở đường. Thế rồi máy bay Mỹ đến, pháo cao xạ bắn, một mệnh lệnh phát ra: “Các anh chạy đi”. Bom nổ, một bàn tay kéo Văn Dung và đẩy anh vào căn hầm đào sẵn bên đường. Bom nổ như rung chuyển cả núi đồi, một cô gái lấy thân che cho Văn Dung ở cửa hầm, trong ánh chớp anh nhận ra cô chính là Thì Thương. Cô gái không quay đầu lại, nói: “Anh yên tâm, đêm mô cũng rứa”. Tiếng bom dứt, các cô lao ra trận địa lấp hố bom, cắm tiêu những hố bom chưa nổ, khắc phục để xe ta vượt qua đèo. Một đêm qua đi, mặt trời lên ở Đèo Mây, các nhạc sĩ chia tay các cô. Không biết dưới bom đạn như vậy mà kiếm đâu ra một cành hoa phong lan tươi và thơm, Thì Thương tặng cho nhạc sĩ Văn Dung. Cầm cành hoa của Thì Thương nhạc sĩ Văn Dung quá xúc động, anh nói với cô gái: “Em nhắm mắt đi”. Cô gái hỏi: “Chi rứa”, nhưng vẫn nhắm. Văn Dung cảm động hôn lên trán cô như gởi lại bao tình thương quý của hậu phương. Và tình cảm ấy, sự rung động ấy thôi thúc Văn Dung nhanh chóng hoàn thành bài hát về cô gái mở đường Trường Sơn. Đầu tiên anh viết: Ơi cô gái Thì Thương / bao đêm em đi mở đường, cho từng chuyến xe anh qua / vang giọng hát em ngân xa… Nhưng sau đó Văn Dung sửa lại Ôi cô gái Trường Sơn thay cho cô gái Thì Thương vì nhạc sĩ cho rằng trong các cô gái Trường Sơn là có Thì Thương. Văn Dung viết với sự rung cảm xúc động mãnh liệt, nước mắt làm nhòa cả trang viết. Về đến Hà Nội, bài hát Đường Trường Sơn xe anh qua của anh phát trên đài phát thanh, nhưng Văn Dung nghe tin cả đội nữ thanh niên xung phong của Thì Thương hi sinh không còn ai trong một trận bom B52.

Nụ hôn của nhạc sĩ Văn Dung đặt lên trán Thì Thương có lẽ là nụ hôn đầu tiên và cũng là nụ hôn cuối cùng của một người đàn ông đi theo người nữ liệt sĩ trong trắng vĩ đại ấy.

*

Trường Sơn là như vậy, mỗi mẩu chuyện thấy được, nghe được đều là những khúc ca hùng tráng, là những huyền thoại của huyền thoại. Những huyền thoại rất đời thường, rất giản đơn. Đó chính là văn hóa Trường Sơn. Sự chịu đựng gian khổ, đương đầu với cái chết vì một lí tưởng cao cả cho đất nước chiến thắng, sự dám hi sinh với lòng lạc quan, yêu đời trong trắng đó đã tạo nên sự vĩ đại của Trường Sơn, tô đậm nền văn hóa cách mạng Trường Sơn, đã làm cho dân tộc ta vĩ đại trên những điều vĩ đại.

TRÌNH QUANG PHÚ
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 333

Mới nhất

Sôi nổi hội thi Kể chuyện theo sách với chủ đề “Chúng em yêu hòa bình”

12/04/2024 lúc 16:01

Ngày 11/4, Thư viện tỉnh Quảng Trị phối hợp với Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Đông Hà tổ chức hội

Khai mạc Ngày sách và Văn hóa đọc Việt Nam tỉnh Quảng Trị năm 2024

11/04/2024 lúc 00:52

TCCV Online - Sáng nay 10/4, tại Thư viện tỉnh, UBND tỉnh Quảng Trị tổ chức khai mạc Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam năm 2024. Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh Nguyễn Chiến Thắng; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoàng Nam tham dự.

Lễ phát động Cuộc thi Đại sứ Văn hóa đọc tỉnh Quảng Trị năm 2024

09/04/2024 lúc 17:57

TCCV Online - Sáng ngày 9/4/2024, tại thư viện tỉnh Quảng Trị đã diễn ra lễ phát động Cuộc thi Đại sứ Văn hóa đọc tỉnh Quảng Trị năm 2024.

Viếng Nghĩa Trủng Đàn đầu năm Giáp Thìn

08/04/2024 lúc 22:34

Mười năm rồi lại trăm nămĐàn Nghĩa Trủng mãi ơn Hoàng Bích KhêTử sĩ Tây Sơn

Giêng hai gieo những ngọt ngào; Ký gửi

08/04/2024 lúc 22:33

Giêng hai gieo những ngọt ngàoGiêng hai lúa đã xanh đồngGiêng hai cải đã trổ

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

19/04

25° - 27°

Mưa

20/04

24° - 26°

Mưa

21/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground