Người Việt có câu “khách đến nhà không trà thì rượu”, uống trà không chỉ là thói quen hàng ngày mà còn là một nét văn hóa bình dị trong những ngày xuân. Bước vào phòng khách của bất cứ gia đình nào, ngay bàn tiếp khách, ta có thể bắt gặp một bộ bình trà được đặt ngay ngắn. Vào những ngày Tết, người ta có thể từ chối ly bia, ly rượu nhưng trà thì hầu như không. Nam nữ, già trẻ cùng nhấp một ngụm trà đầu xuân, ấy cũng là cách để đáp lại những mời mọc nhiệt thành của gia chủ.
Tôi nhớ ngày xưa, mỗi nhà đều có một chiếc hộp thiếc để đựng trà. Nhà nào cũng gắng sắm một bộ bình trà đẹp nhất, có viền vàng óng ánh để pha trà đãi khách. Bộ ấm trà đó khi hết Tết sẽ được rửa sạch sẽ rồi đem cất đi. Trong năm, nếu có dịp đặc biệt như kỵ giỗ hoặc cưới hỏi mới lấy ra dùng, còn lại chỉ dùng trong dịp Tết. Trà cũng vậy, loại trà ngon chỉ đãi khách quý dịp đặc biệt hoặc mời khách ngày Tết.
Theo các danh y thời xưa và cả những nghiên cứu ngày nay, trà có nhiều công dụng tốt cho sức khỏe. Một số chất như axit amin và vitamin có trong trà sẽ giúp ngăn ngừa tình trạng oxy hóa cấp độ tế bào và hỗ trợ làm chậm quá trình lão hóa của cơ thể. Bên cạnh đó, trà có công dụng giảm mỡ, giảm cholesterol, ngăn ngừa hiệu quả các căn bệnh liên quan đến tim mạch. Cafein trong trà giúp cơ thể tỉnh táo, giúp lưu thông máu tốt hơn.
Người Việt không quá trọng hình thức khi thưởng trà. Văn hóa uống trà được xem là dành cho đại chúng, phổ biến từ nông thôn đến thành thị. Có chăng, sự phân biệt giàu nghèo sang hèn thể hiện qua bình trà cao cấp hàng hiệu, qua loại trà thượng hạng giá tiền triệu hay bình trà, loại trà bình dân. Những ông già có thói quen uống trà hàng ngày, sau bữa cơm thường quan niệm uống miếng trà cho sạch miệng. Họ tin nước trà khử đi những vị tanh nồng của thức ăn và thực sự là như vậy.
Tùy vào đặc trưng vùng miền và cách chế biến, nhìn chung trà được chia làm ba loại: trà hương, trà mạn và trà tươi. Trà hương thường được ướp bởi một số loại hoa bắt hương như: sen, nhài, cúc, sói, mộc, bưởi, ngâu… Trà tươi (còn gọi là chè) được dùng phổ biến ở các làng quê, người ta hãm lá trà tươi vào nước sôi để uống. Trà mạn là trà phổ biến nhất, từ búp trà tươi sao khô, phơi sấy mà thành. Nhắc đến trà, đa số ai cũng hiểu là đang nhắc đến trà mạn.
Có thể thấy, trà đạo của Việt Nam không cầu kỳ như trà đạo Nhật Bản, không duy mỹ hình thức như trà chiều của người phương Tây. Trà đạo truyền thống của Việt Nam khá đơn giản. Những người mê uống trà đều biết đến câu “nhất nước, nhì trà, tam pha, tứ ấm”. Để có chén trà ngon, điều quan trọng trước tiên là ở nước pha trà. Trong cuốn Trà Kinh của Lục Vũ - người được mệnh danh là thánh trà của Trung Quốc, ông đánh giá nước pha trà qua câu “sơn thủy thượng, giang thủy trung, tĩnh thủy hạ”. Nghĩa là, nước pha trà ngon nhất là nước trên núi, sau đó là nước sông, kế đến là nước giếng. Người xưa thường dùng nước giếng, đặc biệt là giếng đá ong tại vùng đồi núi hoặc nơi chùa chiền thanh tịnh, hay tại chính các vùng trồng trà nổi tiếng, đây được xem là nguồn nước trong lành, sạch sẽ, pha trà sẽ thể hiện được các chất của trà từ hương đến vị. Những vị cao nhân còn dùng nước mưa, hoặc đỉnh cao hơn là nước sương để pha trà. Cách đun nước cũng khá công phu. Không đun bằng củi, bằng dầu mà phải đun bằng than để không làm mất đi vị trà. Nước dùng để pha trà không phải là nước sôi sùng sục, nhiệt độ chỉ chừng 80 độ C để trà không bị cháy.
Trà sẽ được bỏ vào ấm, tráng sơ bằng nước nóng, sau đó cho nước vừa sôi vào, nước rót vào ấm không được để lâu, vị trà sẽ gắt, không ngon. Nước trà sau khi pha vào ấm được rót ra một cái chén lớn, gọi là chén tống. Từ chén tống mới rót ra chén quân để đảm bảo trà không bị ngâm lâu và trà trong mỗi chén đồng đều nhau về độ đậm nhạt. Nước trà ngon là ở nước thứ nhất và thứ nhì, cùng lắm là nước thứ ba vì những nước sau đó, chất tanin ở sâu trong trà sẽ tiết ra nhiều làm người uống bị mất ngủ, không tốt cho sức khỏe. Ấm pha trà được chọn tùy số lượng người thưởng trà, tùy loại trà mà chọn ấm phù hợp. Sau khi chén trà được tráng bằng nước sôi, người ta xếp các chén sát nhau thành một vòng tròn, thể hiện sự gắn bó cũng như mong ước đủ đầy, viên mãn. Khi rót trà theo hình tròn, mỗi chén rót một chút từ đầu đến cuối rồi rót vòng ngược lại. Với cách rót như thế, chén trà nào cũng có độ đậm nhạt như nhau, thể hiện sự bình đẳng giữa chủ và khách. Trong suốt quá trình pha, người pha trà (được gọi là trà nương, trà nô hay trà nhân) nên giữ sự thanh tịnh, hòa hợp, vui vẻ thì vị trà mới ngon, hương trà mới thơm và màu trà mới trong. Bộ dụng cụ để pha trà đầy đủ được gọi là trà cụ, gồm ấm trà, chén trà, lọc trà, khải, tống. Một số người cầu kỳ, sành chơi còn dùng thêm gác nắp ấp, bếp đun, hũ đựng trà, lư đốt trầm, chậu bonsai… nhằm tạo thêm không gian thưởng trà.
Một buổi thiền trà pháp thoại tại chùa Sắc Tứ - Ảnh: Duy Hùng
Từ xưa đến nay, trà không thể thiếu trong trong dịp Tết ở mỗi gia đình Việt. Không chỉ uống trà búp, móc câu đơn thuần, người cầu kỳ, tinh tế còn ưa dùng các loại trà ướp hoa sen, hoa nhài. Những bình trà thơm như mang cả hương hoa đất trời bốn mùa vào câu chuyện vui vẻ đầu xuân. Nếu như thưởng trà mộc, người ta cảm nhận được cái hồn của trà, thì với trà ướp hoa, hương vị của trà hòa quyện với hương hoa tinh khiết khiến tinh thần được thư giãn. Một chén trà đôi khi chứa đựng bao điều sâu xa. Đúng như Nguyễn Tuân đã từng nhận xét: “Trong một ấm trà ngon, người ta thấy có một mùi thơ và một vị triết lý”.
Những năm gần đây, nhiều người trẻ tìm đến thiền trà như một phương pháp chữa lành thân tâm. Theo sư ông làng Mai, thiền trà là thiền tập trong khi uống trà, có khi ta để ra hai giờ đồng hồ chỉ để uống một chén trà và ăn một cái bánh nhỏ. Thiền trà được tổ chức tại các chùa và cũng có thể tổ chức tại nhà. Sau những thăng trầm xao động của cuộc sống, buổi thiền trà chính là lúc con người mượn chén trà để đưa tâm trở lại với chính mình. Con người được sống với hiện tại, tận hưởng cảm giác an lạc, thoải mái và hạnh phúc.
Thiên nhiên ưu đãi cho nước ta nhiều vùng sản xuất trà ngon nổi tiếng từ Bắc vào Nam. Vùng đất Thái Nguyên nổi tiếng với những cánh đồng trà xanh bát ngát. Trà xanh Thái Nguyên có hương thơm đặc trưng, màu xanh trong và hậu vị ngọt dịu. Với các thương hiệu trà có tiếng trên thị trường như trà Tân Cương, Đồng Hỷ, La Bằng… đặc biệt trà nõn tôm Tân Cương được đa số người dùng ưa chuộng. Vùng cao nguyên Mộc Châu (Sơn La) cũng là nơi trồng trà nổi tiếng. Từ năm 2019, sản phẩm Ô Long Lão Trà của Mộc Châu đã đoạt giải Vàng cuộc thi trà quốc tế Paris. Với nhiều sương mùa, đêm lạnh, cây trà Mộc Châu phát triển chậm, bù lại nội chất của trà cao hơn các nơi khác. Một vùng đất nổi tiếng khác về trà là Suối Giàng (Yên Bái), nơi đây được xem là một trong những vùng đất thủy tổ của cây trà. Đặc biệt, đây là nơi có khoảng hơn 40.000 cây trà Shan Tuyết có tuổi đời từ 100 đến 300 năm. Trong đó có hơn 400 cây đã được công nhận là cây Di sản của Việt Nam. Trà Shan Tuyết có lớp lông mao trắng muốt bao phủ trên búp chè non. Khi pha trà, những sợi lông mao này bung ra, lơ lửng trong nước, tạo nên một màu nước vàng óng ánh, đẹp mắt. Hương thơm của trà Shan Tuyết cũng rất đặc trưng, thoảng hương rừng, hương hoa, quyện với vị ngọt hậu, chát dịu nơi đầu lưỡi. Đây là loại trà được ví như cực phẩm tinh túy của đất trời Tây Bắc. Một địa điểm khác phải kể đến đó là vùng Cầu Đất (TP Đà Lạt, Lâm Đồng) là vùng đất khởi tổ của cây trà ô long. Trà ô long được trồng ở Cầu Đất có hương thơm nhẹ đặc trưng, nước vàng trong và hậu vị ngọt nhẹ. Vùng trồng trà ô long Cầu Đất cũng là vùng trà du lịch nổi tiếng, một địa điểm không thể bỏ qua khi đến Đà Lạt. Bên cạnh đó, Bảo Lộc là vùng trồng trà ô long nổi tiếng thứ hai ở Lâm Đồng. Mặc dù phát triển sau Cầu Đất nhưng đây là nơi trồng trà trọng điểm của tỉnh. Sản phẩm trà được ưa chuộng bởi chất lượng và mang lại giá trị xuất khẩu cao. Có một điều đặc biệt phải kể đến, đó là trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi đã cho hậu thế biết châu Sa Bôi là nơi có trà ngon nhất ngày xưa, cụ thể là danh trà Tước Thiệt. Sa Bôi ngày nay chính là vùng Cam Lộ, Quảng Trị, song thật đáng tiếc bởi dấu tích về trà Tước Thiệt không còn chút gì lưu dấu ở nơi đây.
Theo nghiên cứu của tổ chức Research and Markets, mức tăng trưởng của ngành trà trên thế giới ngày càng cao do lối sống và nhận thức của người tiêu dùng thay đổi về việc uống trà có lợi cho sức khỏe. Dự kiến thị trường trà toàn cầu sẽ đạt 37,5 tỷ USD vào năm 2025, vượt xa con số 24,3 tỷ USD ghi nhận trong năm 2016. Việt Nam hiện đứng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu trà, đứng thứ 7 về sản xuất trà toàn cầu. Sản phẩm trà của Việt Nam hiện đã có mặt tại 74 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ngày đầu năm, người Việt thường dâng lên bàn thờ tổ tiên những chén trà thơm để thể hiện lòng thành kính với tổ tiên ông bà. Bát hương nghi ngút, chén trà bốc khói, cả không gian ngập tràn mùi hương thanh khiết, tạo nên cảm giác giao hòa giữa trời đất và con người. Sau nghi lễ, trà trở thành tâm điểm trong những cuộc trò chuyện gia đình. Từ ông bà, cha mẹ đến con cháu, mỗi người một chén trà, cùng nhau chia sẻ niềm vui, kể lại những câu chuyện cũ và gửi gắm hy vọng cho năm mới. Trà trong ngày Tết không đơn thuần là thức uống. Nó là linh hồn của những câu chuyện, là chiếc cầu nối thế hệ và là biểu tượng của sự trân trọng và gắn bó. Khi uống trà, người ta nhấp từng ngụm nhỏ để cảm nhận vị đắng chát nơi đầu lưỡi rồi dư vị ngọt thơm nơi cuống họng. Giữa cái se lạnh còn len lỏi trong không khí, một chén trà nóng không chỉ làm ấm lòng mà còn gợi lên những ký ức đầy nhung nhớ. Hai tay ấp ủ nâng chén trà, từ từ nhâm nhi cảm nhận hơi ấm tỏa ra trong tiết trời se lạnh của mùa xuân, cùng bạn tâm giao chuyện trò to nhỏ, ấy là cái thú mà nhiều người hằng mong ước.