Gần nửa thế kỉ nay, nhiều người viết về lứa trẻ sinh ra dịp 30 tháng 4 năm 1975, lứa cán bộ trưởng thành từ 30 tháng 4, những người lính 30 tháng 4 trở về nay ở đâu... Nhưng những người con gái 30 tháng 4 thì tôi để ý, chưa thấy ai viết. Hay họ viết mà tôi không biết. Trong ngất ngây những ký ức về ngày thống nhất tôi vẫn bâng khuâng nhớ về những người con gái tôi từng gặp họ vào lúc đất nước thu về một mối. Tôi gọi họ là “những người đàn bà tháng Tư năm Bảy lăm”. Họ thật đáng trân trọng và yêu quý biết nhường nào.
Cô biệt động Mỹ Hạnh
Hạnh quê ở Tân Phú Trung, Củ Chi. Cho tận tới tối 28/4/1975 trước giờ hành quân tôi mới gặp Hạnh. Chiều ấy nắng đã tàn mà trời vẫn hồng rực lên. Lúc ấy chúng tôi ở An Nhơn Tây dàn đội hình hành quân mà vẫn thấy lửa sáng phía tay phải đội hình. Có một cô gái người lẳn như củ khoai sọ, đeo AK báng gấp, bảo: Chỗ sáng đó là Đồng Dù. Ai cũng nhìn sang cô gái có cái bồng bằng vải ni lông sáng màu cổ vịt. A phó Ngô Thịnh hỏi: Này cô đi đâu đấy? Cô gái trả lời: Tôi đến gặp anh Luân và dẫn đường cho tiểu đoàn 8 đánh Ấp Chợ - Cầu Bông. Tiểu đội trinh sát mắt sáng lên. Lần đầu tiên có em gái đi cùng trong một trận đánh lớn, ai chả thích. Tôi gọi: Này em ơi anh biết tên em rồi. Cô gái cũng nói luôn: Em cũng biết tên anh rồi nha. Biết từ lúc nhìn thấy anh da đen quá trời. Cấp trên của anh bảo, em về đó gặp thằng Luân đen rồi cùng nhận nhiệm vụ đêm nay. Cả tiểu đội cười ồ. A phó Ngô Thịnh nói trong lúc có tiếng pháo vút qua: Này Hạnh ơi thằng Luân đen nó có người yêu ngoài Hà Nội rồi, em đi mũi luồn sâu đêm nay cùng anh thôi. Cô gái tên Hạnh cười ri rí: A trưởng phân công đâu em nằm đấy. Cả A trinh sát rúm vào nhau cười rinh rích.
Tiểu đoàn nhằm hướng nam hành quân. Những cánh đồng ruộng trằm lúp xúp và những con kênh nhỏ rồi lại con kênh lớn. Pháo địch bắn từ thành Quan Năm lên, từ Đồng Dù ra hu hú qua đầu. Có vài quả rớt cả vào đuôi đội hình khiến lính ta chạy nháo nhào lên phía trước. Vừa lúc gặp đoạn kênh lớn nước quá đầu người. Bộ đội phía sau hỏi lên có cởi quần không? Hạnh giật mình kêu chu cha! A phó Ngô Thịnh nói khẽ với tôi, truyền lệnh cho cởi quần đi! Hạnh giãy nảy lên. Em xin. Em xin anh. Ngô Thịnh cười hé hé. Cả đoàn quân cứ thế lặng lẽ xuống nước. Rồi có tiếng, chết đuối rồi, chết thằng Dìn rồi. Mỹ Hạnh quay ngoắt lại trong mập mờ đêm, nhoáng cái lôi chàng Dìn vào bờ. Chúng nó hỏi mày không biết bơi à? Em không biết. Hinh hích hinh hích, lính ta cười. Mỹ Hạnh càu nhàu, đồng đội chết ỉm đến cổ còn húm vào cười. Lính ta chả ai nói gì.
Vượt qua lộ 8 đoạn Phước Vĩnh An. Cái đồn địch bắn đạn 12,8 đỏ lừ lừ: Cành! Cành! Cành! Chó sủa râm ran. Mặc, chúng tôi cứ nhắm phía Cầu Bông mà lội tới. Mùi bùn, mùi lúa con gái ngai ngái trong đêm. Lính hỏa lực ì ọp ngã lên ngã xuống. Bờ ruộng thì nhỏ bùn lại trơn, tôi bảo Mỹ Hạnh, tôi chiếu bản đồ Hạnh dẫn bộ đội lội trên lúa. Hạnh cự, nát lúa uổng lắm. Tôi gắt, không thể để chậm giờ vào chiếm lĩnh. Tôi truyền lại, tất cả lội ruộng theo trinh sát. Thế là hàng mấy trăm người bì bõm dưới ruộng, rồi leo lên ruộng cạn rồi lại xuống nước. Cứ thế chúng tôi vòng qua cánh đồng rìa làng Tân Thông Hội, xuống Tân Phú Trung.
Một giờ sáng, trăng bất thần nhú ra. Cả đội hình đến cánh đồng trồng dưa của dân Tân Phú Trung. Trong đêm mà vẫn nhận rõ những chùm dưa lúc lỉu, nần nẫn. Tiểu đoàn truyền xuống, hạ ba lô im lặng. Trinh sát bàn nhau, xin đồng bào mấy quả dưa “khợp” đi. Lập tức bị Mỹ Hạnh phản ứng. Hạnh nói, các anh đi làm cách mạng mà lại ăn trộm của dân à?
Tôi đưa cho Hạnh gói lương khô. Mỹ Hạnh mừng húm hít hà rồi ăn ngay, vừa ăn vừa nói lương khô chủ lực ngon quá trời. Tôi bảo mỗi trận đánh tụi anh chỉ được một gói thôi. Hạnh ăn rồi anh phải ăn dưa thôi. Cô biệt động kêu trời, rằng bộ đội lừa nhân dân. Chúng tôi cười khoái trá và bổ dưa ăn.
Trưa hôm ấy 29/4/1975 đánh dứt điểm đồn Tân Phú Trung và Cầu Bông. Đồng bào Tân Phú Trung ào ra đường ôm lấy Mỹ Hạnh. Người ta à lên, út ơi mày đi đâu mà lâu về thế? Bỗng có mấy người mặc đồ sơ vin lẫn trong bà con lục tục tránh đạn ngoài bưng đi về nhìn thấy Hạnh liền vùng bỏ chạy. Hạnh nổ súng ngay tắp lự. Mấy người đàn ông sững lại. Thì ra đó là hai thằng ấp trưởng ấp phó và lũ dân vệ ác ôn đã từng săn tìm Mỹ Hạnh bấy nay. Cuộc đời thật trớ trêu. Họ gặp Hạnh và Hạnh cũng mong được gặp họ.
Tôi xa Mỹ Hạnh từ lúc ấy. Hạnh ở lại Tân Phú Trung còn tôi cùng đơn vị tiến vào đô thành. Tiểu đội tôi ai cũng nhớ cô biệt động Mỹ Hạnh mà chả anh nào có may mắn gặp lại cô gái ấy. Vài chục năm sau tôi trở lại Củ Chi, bà con kể cho tôi nghe sau giải phóng Hạnh được đi học làm y tá rồi lấy chồng về trên Lâm Đồng sinh sống. Chỉ có điều tiếc là cô ấy mất đã vài năm nay.
Cô giao bưu ở Bến Đình Củ Chi
20/4/1975, nơi chúng tôi ém quân ở Bến Đình có một đơn vị giao bưu. Chỗ đó nhiều cây ổi lắm. Ổi xùm xòa xuống sông. Những cành ổi gác che mái nhà cho cái trạm giao bưu này nhiều mùa mưa nắng. Trưa nóng, tôi mắc võng sát mặt nước. Nằm nhìn lục bình trôi xuôi dòng và những con cối xay lan lan chạy trên mặt nước tôi chợt nhớ nhà, nhớ ngày bé con của mình.
Cách chừng 10 mét có một cái võng, một cô gái giao bưu cỡ tuổi tôi ngồi thõng chân nhìn bất động ra sông. Mấy ngày nay bộ đội chủ lực về đây đông nghìn nghịt kín cả triền cỏ dọc sông Sài Gòn. Cô gái giao bưu nhớ gì mà cô im lặng đến hàng giờ. Gương mặt thật đẹp. Cô chỉ nhìn vào đám lục bình trôi ngoài sông Sài Gòn. Mặt sông lốm đốm những đám lục bình trôi. Những chùm hoa tím chĩa lên trời. Sóng sông lom tom như cá quẫy. Trưa nắng, có cả tiếng bìm bịp kêu. Sông Sài Gòn lên hơi như khói.
Không biết người con gái ấy nhớ ai? Không biết có điều chi uẩn khúc. Mặt trái xoan, mái tóc kẹp cặp ba lá, ngực căng bà ba đen. Chỉ có con mắt là buồn tê tái. Tê tái ngay cả lúc trưa nắng và đầy con trai bên bờ sông im tiếng súng. Chưa bao giờ tôi thấy cô nói, chỉ nhìn đoàn quân ồ ạt trẻ trung như kẻ mộng du rồi lại nhìn ra sông. Cứ thế cô như một hòn vọng phu búi tóc.
Buổi trưa 26/4, sau lúc được trung đoàn phổ biến chiến dịch được mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh ai cũng mừng húm. Tôi vội moi cóc ba lô nhưng tìm không thấy cây bút để viết nhật kí. Ngó sang thấy cô giao bưu vẫn ngồi trên võng nhìn ra sông, liền đánh bạo sang hỏi mượn cây bút. Cô gái móc trong cái bồng treo trên cành ổi ra cây Bic đưa cho tôi và khẽ nói, anh cầm lấy mà dùng. Không hiểu sao trang nhật kí hôm ấy tôi toàn viết về con gái Củ Chi. Tôi viết về họ, những người chiến đấu kiên cường trong vòng đai lửa thép mà ai cũng xinh cũng đẹp. Có điều ai cũng buồn buồn.
Chính trong đêm hành quân chiếm lĩnh Cầu Bông tôi đã nghe cô biệt động Mỹ Hạnh kể về cô giao bưu ấy.
Năm 1974, trong một trận càn của Sư đoàn 25 Việt Nam Cộng hòa vào khu vực Bến Đình. Chồng cô gái là trạm trưởng giao bưu đã chiến đấu hết đạn và bị địch bắt. Họ có một đứa con trai mới hai tuổi hôm ấy cũng ở lại trạm với bố còn mẹ đi công tác chưa về. Địch bắt được hai bố con, chúng đưa ra sông buộc đá rồi thả xuống sông Sài Gòn, chính là trước rặng ổi nơi chúng tôi về trú quân vừa qua. Bây giờ thì tôi biết vì sao cô gái xinh đẹp ấy đã bao nhiêu ngày ngồi thõng chân nhìn ra sông Sài Gòn bất động như một hòn vọng phu.
Một thời gian sau 30 tháng 4 năm 1975 tôi lại gặp người con gái giao bưu Bến Đình ở Bưu điện huyện Củ Chi khi đi gửi thư về nhà. Cô ngồi trong quầy gửi thư và điện tín. Tưởng cô nhận ra mình nhưng cô nhìn tôi rồi trượt cái nhìn qua đầu ra ngoài sân đầy nắng mùa hè. Vẫn buồn, vẫn im lặng, vẫn đẹp. Ngoài kia, chiến tranh mười ngàn ngày vừa đi qua đất nước tôi và cuộc đời chúng tôi. Năm 1988 khi tôi vào công tác Sài Gòn nghe tin cô ấy vừa mới đi lấy chồng.
Ảnh tư liệu về Trung đội Nữ du kích Củ Chi
Chị Bẩy Thơm
Năm 1993, tôi và một người bạn ở Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh đến thăm chị. Hai hàm răng chị lúc ấy đã rụng mấy cái, chị cười mà không biết là chị cười. Khổ thế. Cái răng cái tóc cả hai cái đều báo hại chị. Một thời cái tên Bẩy Thơm ở xã Tân Phú này ai mà không biết. Gặp chị loe hoe tóc bạc xơ, răng rụng khiến hai má hóp lại. Chị nhìn không ra tôi, phải nói là: Em đây chị, em là Luân 320 này. Chị à à ờ ờ rồi khóc. Khóc chán rồi chị cười. Mà em vô lâu mau? Ở lại không? Bỗng nhiên chị lại khóc. Mà em ơi chị không nuôi được em bữa cơm như ngày nào đâu... Nghe buồn thế, tôi và người bạn nín thinh. Ngoài vườn mấy cây lê ki ma lá rụng nâu xỉn mặt sân. Hai cái lô cốt chắn cái cổng vào nhà chị biến mất tự bao giờ. Bây giờ chính quyền họ sắp chia lô bán đất. Nhà chị vẫn nép sau sự ồn ã của xã hội đổi mới.
Trung đoàn 64 đánh ấp Chợ, Tân Phú Trung. Khó khăn nhất là hai cái lô cốt bên nam đường chỗ đầu dốc ấp Chợ. Cả căn cứ này có một tiểu đoàn địch hỗ trợ cho Cầu Bông cách đó chừng 800 mét. Cô biệt động Mỹ Hạnh ghé tai tôi lúc còn ở trên An Nhơn Tây. Anh yên tâm đi, điều nghiên cụm lô cốt Tân Phú Trung em đã nhắn nhe chị Bẩy Thơm. Tôi hỏi lại, Bẩy Thơm là ai? Mỹ Hạnh trả lời, chỉ là cán bộ phụ nữ nhà sát ngay phía sau đồn địch. Hàng rào dây thép gai lô cốt Tân Phú Trung vào mép vườn nhà chỉ. Lát nữa khi đến Bàu Trâm sẽ gặp Bẩy Thơm để chỉ đưa sơ đồ cụm lô cốt đó anh hai. Chỉ cũng sẽ là người dẫn đường đại đội đánh bộc phá đó anh.
Đêm ấy tôi gặp chị lúc trăng mờ mờ ngoài đồng dưa leo. Chả rõ mặt nhưng thân hình eo ót và lanh lẹ lẩn vào đêm. Trận đánh hôm 29/4 cũng may mắn là nhà chị không bị trúng đạn hay bị cháy. Chị khoe cái hầm giữa nhà xây cất từ năm Mậu Thân kiên cố lắm. Bên trên là một cái phản rộng bằng bê tông đúc dày đến 15 phân ba hàng mễ vâm vu làm thành mái chắn mảnh pháo. Chiến tranh bom đạn nên gặp rồi xa chẳng ai nghĩ có thể gặp lại chị.
Một tuần sau ngày 30/4, Sư đoàn 320 trở ra Củ Chi đóng quân. Tiểu đoàn tôi lại đóng đúng ngay ấp Chợ. Chúng tôi ra thăm cánh đồng chôn hơn ba mươi tử sĩ của tiểu đoàn hôm 29/4, đi lại những bờ mương, những rặng bằng lăng còn nhuốm màu khói súng. Cuộc sống của dân làng đang còn ngơ ngác thăm dò. Chúng tôi vào ngôi nhà gần cái lô cốt oái oăm kia xin nước và tắm nhờ. Ông già quắc thước chừng ngoài 60 mặc quần cụt ngồi khoanh chân trên phản. Ông nói nghe sang sảng: Con Bẩy lấy cho mấy chú mượn cái thau. Ông phẩy phẩy cái quạt: Tắm rồi vô chơi. Chúng tôi múc nước giếng tắm ào ào. Rồi vô sân kiếm cái ghế ngồi. Ông già kể: Sáng 30/4 tao một mình một xe dắt con rựa bám theo bộ đội vô thành phố, suốt cả ngày không thấy thằng Hai thằng Tư tao mới về. Mới giải phóng mà có ông già gọi quân giải phóng là mày xưng tao cũng thấy chờn chợn. Ngồi nghe vậy thôi mấy thằng chưa dám hỏi gì. Ông bảo, mai vô đây tao kêu con Bẩy nướng bánh tráng nhậu vài li đế chơi. Tò mò quá. Nhậu bánh đa nướng với rượu đế? Chưa bao giờ tôi từng biết. Tối sau chúng tôi lại vào. Chị Bẩy nướng mấy cái bánh đa và thái mấy quả xoài xanh. Bánh đa Củ Chi có tiếng chả kém gì Trảng Bàng đâu hà. Ông già nói rồi đưa li cho chúng tôi. Ông đưa li nào thì tôi uống li ấy. Hồi đó tôi chưa từng uống rượu nhưng cứ uống và thấy cũng hay hay. Rồi nghe ông kể. Trong lúc ông kể thì chị Bẩy lụi hụi gọt thêm xoài, nướng thêm bánh. Ôi thì ra là du kích Bẩy Thơm tôi đã gặp ngoài đồng cái đêm vào đánh ấp Chợ. Từ lúc ấy tai nghe câu chuyện ông già kể còn mắt thì nhìn chị Bẩy. Tấm áo bà ba căng căng. Mặt cúi xuống hiền khô chả thấy ngẩng lên.
Chị Bẩy mặn mòi, chị làm phụ nữ xã nhưng hoạt động hợp pháp. Hai mươi lăm tuổi chưa có chồng. Nghe đâu có thương anh nào đó trên bộ đội Củ Chi mà ảnh hy sinh rồi. Mươi ngày sau chúng tôi về đóng trên Đồng Dù. Vài tuần được ra khỏi doanh trại một lần, lại chạy nhờ xe honda xuống Tân Phú Trung ghé vào nhà chị. Ông kêu chị Bẩy nấu cơm ăn, ngồi với ông học uống rượu đế. Rồi sau đó là làng quê giải phóng thay da đổi thịt hừng hừng vô tổ hợp, tập đoàn. Cái cầu Bông cách ấp Chợ non cây số cũng xây lại, mang cái tên cầu An Hạ. Cánh đồng phía tây ấp Chợ có một con mương đào lấy nước mang cái tên Phạm Văn Hai, rồi nông trường này nọ mọc lên. Những rặng bằng lăng ngoài bờ ruộng chỗ còn chỗ chặt đi. Đôi chỗ bằng lăng còn sót lại hoa vẫn tím ngan ngát mỗi độ tháng năm về.
Năm 2003, tôi đi công tác, lên thăm Tân Phú Trung. Con đường xuyên Á rõ to và phẳng đẹp. Dừng lại ở cầu Bông nhìn xuống dòng nước rợp những thân dừa nước và lau sậy khi xưa bây giờ chỉ thấy là quán xá. Cái chợ xưa vẫn còn đó. Cái dốc lên chợ nay ít dốc hơn. Chỉ có một đặc điểm là những bờ mương, bờ ruộng vẫn đầy kịt lục bình như xưa. Củ Chi vời vợi xa mà gần sau tiếng búa máy và xe cộ xoe xóe ngoài đường.
Nhà chị Bẩy vắng quá. Cái cổng cũ biến đâu. Tôi và bạn mình đi vòng lối sau vào nhà. Trước mắt tôi, chị Bẩy Thơm phụ nữ tháng Tư năm xưa vẽ sơ đồ đồn Tân Phú giờ là một bà già móm mém trong ngôi nhà vắng. Ngoài kia tiếng máy ủi máy búa đang rầm rập thi công khu công nghiệp Tân Phú Trung. Cái vườn có những cây lê ki ma vẫn xanh mướt nhưng đã là của người khác. Bờ ao hoa lục bình thì vẫn tím…