L |
à người Việt
Làng Văn Quỹ ở xã Hải Tân của huyện Hải Lăng thuộc tỉnh Quảng Trị là một trong những ngôi làng có làn không khí óng ánh bụi nước trên đồng ruộng, trên những nếp nhà bình lặng, có những người phụ nữ giản dị mà rất đỗi khéo léo và cần mẫn cứ mải mê làm nón sau những giờ trồng lúa, trồng khoai, nấu nướng, chăn lợn, nuôi gà. Ở Văn Quỹ, nghề làm nón lá xuất hiện từ hơn bốn trăm năm trước, khi ở hai bên bờ của dòng Ô Lâu con người vừa vung những nhát cuốc lật bãi đất bồi để gieo trồng cuộc sống, dựng nhà, mở lối, làm nên làng mạc. Theo nhịp khoan nhặt của vó câu thời gian, từ những ngày chằm một vài chiếc nón để che nắng che mưa khi làm ruộng, đi thuyền đến lúc nón của làng vào nam ra bắc, người Văn Quỹ đã góp tên làng mình vào thư mục nghề nón của nước Nam. Cũng như bao chiếc nón khác trên mọi miền của đất nước trăm mến ngàn yêu của chúng ta, nón lá văn Quỹ không cầu kỳ, phức tạp mà vẫn có thể khiến lòng người xao xuyến mỗi khi cầm nón trên tay, đội nón lên đầu hoặc nhìn ngắm nón theo ai đi về trong mỗi sớm mỗi chiều. Đặc điểm chung rất đỗi thường tình ấy của chiếc nón lá đã hơn một lần neo vào thi ca vẻ đoan trang, dịu dàng của người con gái như trong câu thơ tràn ngập cảm xúc băn khoăn ý nhị của chàng trai - thi nhân: "sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón".
Trong mỗi lớp lá, mỗi nuột kim, những người phụ nữ của làng Văn Quỹ không ngờ rằng họ đang lặng lẽ cắt nghĩa về vẻ đẹp của từng chiếc nón. Chọn mua lá dừa, lá kè xong họ mang về ủi thật phẳng trên hơi nóng của ngọn lửa phả vào đĩa sắt rồi vót mung, chuốt vành. Tỉ mỉ là vậy nhưng không gì ngăn được họ say mê xây từng lớp lá lên khuôn nón, luồn kim từng sợi gấc mỏng mảnh thật dài mà chằm hết vành nón này đến vành nón khác. Cho đến khi hoàn tất mũi gấc nút vành cuối cùng là lúc người phụ nữ của làng Văn Quỹ lần nữa làm dày thêm nét đẹp cuộc đời. Đó là nét đẹp được những đôi bàn tay mẫn cảm và sự tinh tế của họ gom từ những tàu lá dừa miền Nam, những đọt lá kè của núi rừng miền Trung, những cây lồ ô mảnh khảnh- những sợi gấc nhẹ mềm như tơ. Nhìn dáng điệu miệt mài của những người phụ nữ ở Văn Quỹ- có thể hiểu vì sao nghề làm nón đã được truyền đời từ rất lâu trong chính thời gian và không gian bình dị của miền quê dân dã này. Với họ, nón đẹp và nón bền đã là mục đích trong những ngày tháng ấu thơ nhìn ba mạ làm nón rồi không rõ từ lúc nào, những ngón tay nhỏ của họ biết chọn từng nuột lá xếp lên khuôn, chọn sợi gấc và gửi gắm vào từng nuột kim ước vọng vươn tới cái đẹp, cái có ích trong cuộc đời. Và để giúp những người phụ nữ của làng mình sáng tạo ra cái phần nên thơ trong cuộc sống, những người đàn ông ở Văn Quỹ tìm cách làm khuôn nón sao cho thật đẹp, thật bền. Ở mỗi làng nón thường chỉ có một hoặc hai người có thể làm khuôn nón mà trong một vòng quay nhẫn nại của trái đất quanh mặt trời người ấy làm được một chiếc khuôn nón bầu liêu hay nhọn, sâu hay cạn, mười bốn hay mười sáu hoặc mười tám vành bằng gỗ có độ dai thật tốt cùng trọn vẹn lòng kiên nhẫn, sự chăm chỉ và khéo léo của mình. Đó là cách để họ khai sinh những chiếc khuôn nón có độ bền rất lâu thường được tính bằng tuổi nghề làm nón của một phụ nữ. Còn nữa ở Văn Quỹ một nếp cũ của nghề nón mang ý nghĩa truyền đời là khi người con gái lấy chồng, trong những gì mà ba mạ của cô cho làm hồi môn có chiếc khuôn nón. Người con gái đem chiếc khuôn nón ấy theo về nhà chồng như một tặng phẩm của làng quê ruột thịt, để cô có thể làm nón cho mẹ chồng chị và em chồng hoặc gây dựng một làng nón mới. Về sau, con gái của cô lớn khôn, đến lượt cô sắm cho con gái của mình một chiếc khuôn nón với mục đích không hề khác.
Trong mỗi nếp nhà thân thuộc ở Văn Quỹ, có thể nghe những giọng nói nhẹ êm, trầm ấm về một trạng thái tâm tư của người phụ nữ rằng, họ không thể xa rời những lá, những vành, những kim và khuôn nón lâu hơn một buổi. Bởi với họ, chằm nón là đời sống và hơn thế nữa, đã là máu thịt, là điều luôn làm bận rộn trái tim của họ nhất là khi vừa xong việc đồng áng, nấu chín bữa cơm gia đình, nhắc nhở con trẻ chăm ngoan... Chỉ bằng cái với tay là họ chạm vào lá, vào khuôn, vào vành và với vài người ngồi bên nhau trong mái hiên hoặc gian nhà nhỏ mà ủi lá, bắt vành, xây lớp, xâu kim, nức vành là họ có thể chằm nón suốt mùa này qua mùa khác bất kể nắng, mưa. Bỗng chốc đã xuất hiện một thế giới nhỏ nhắn, vui lành là nơi ra đời của những chiếc nón mà rồi đây sẽ theo nữ sinh nhỏ đến trường, cùng cô thôn nữ tát nước đầu đình, che mưa nắng cho những bà, những mẹ tần tảo trên ruộng lúa, vườn khoai, bãi bắp, triền sông, chợ quê. Trong tâm tưởng của rất nhiều người, dù đi đâu về đâu, hình ảnh người làng mình nghỉ chân bên gốc đa sau buổi làm đồng mà dùng nón quạt khô những giọt mồ hôi trên gương mặt, người mẹ vừa hát ru vừa lấy nón âu yếm quạt mát cho con ngủ giữa trưa hè đã là nỗi nhớ. Đây cũng là nơi những chiếc nón bài thơ, nón lá dừa bắt đầu vẻ đẹp có sức lay động hồn người khi làm nên một nét duyên dưới ánh sáng nhật nguyệt hay trong ánh đèn sân khấu. Vẫn duyên dáng đó thôi dáng hình người con gái đi trong làn nắng của mặt trời lên từ phía nón em nghiêng, vẫn có nhiều hồn nhiên ấm áp khi hai mái đầu của đôi bạn che chung chiếc nón trong cơn mưa chiều, vẫn còn những nhịp nhàng của điệu múa nón thanh thoát trên sân khấu và trong các lễ hội văn hóa dân gian. Một cách độc đáo, nghề nón là một nghệ thuật, mỗi chiếc nón là một tác phẩm nghệ thuật, điệu múa nón cũng là một thể loại nghệ thuật. Bởi vậy, những người phụ nữ làm nón ở Văn Quỹ cũng là những nghệ sĩ mỗi khi chằm nón họ thường hát, hò đối đáp với nhau và trong buổi bình minh êm đềm rời rợi thanh thản nào đó, họ gọi nhau cùng đi vào ngày hội chằm nón của làng. Những chi tiết bình thường mà gợi cảm đó đã và đang làm nên sức hấp dẫn rất riêng của cái nghề có tên gọi giản dị như sản phẩm của nó: nón lá. Sức hấp dẫn ấy lôi cuốn cô bé mười hai tuổi về với những vành lá và mũi kim cùng bà, cùng mạ, cùng dì, cùng chị chăm nón sau giờ học ở trường. Rồi mai này, từ cơm cha, áo mẹ, chữ thầy và với nghề chằm nón thân thiết, cô cũng sẽ là một con người biết làm nên những điều có ích và cái đẹp giữa đời. Bởi trong những ngày của hôm qua và hôm nay. Nón từ tay của cô bé đã phần nào ngăn nắng, cản gió cho nhiều người, đã mềm mại trong điệu múa của đêm văn nghệ trên sân trường…
Đã rất lâu rồi, nón lá Văn Quỹ làm khô ráo và dịu mát bao mái đầu của người thân trên quê nhà, đã hòa vào sức lan xa của nón Huế mà vào ra Sài Gòn, Nha Trang, Hải Phòng, Hà Nội... Để dòng chảy bất diệt của nón lá Việt
N.B.N