Đ |
êm 15 tháng 8, Hà Nội bức bối, ngột ngạt. Không gian oi nồng như sắp sửa tích tụ một cơn giông gió lớn dưới gầm trời ướt sủng với những hạt mưa lắc thắc. Hai mươi mốt giờ mười phút, toàn thành phố phụt tắt ánh điện. Người dân tràn cả ra hè phố, ra đường, ra công viên đông vui như trẩy hội. Ba mươi phút sau, co điện trở lại. Tôi loay hoay tìm quán cà phê In tơ nét, vào mạng và mới tường tận nguyên do rằng trong cơn mưa dông kéo dài từ 8 giờ tối nơi đầu nguồn sông Đà, sét đánh trúng hệ thống đóng- cắt điện của nhà máy là nguyên nhân dẫn đến việc Nhà máy thủy điện Hoà Bình bị “rã” khỏi lưới điện quốc gia, kéo theo “rã lưới” toàn miền Bắc.
Hôm sau tôi lên sông Đà. Dừng chân bên cửa xả lũ Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình cảm giác như đang đối diện với từng đợt sóng lừng nơi biển cả. Nước sông Đà trước khi thong thả cam chịu một đời sông yên đằm với hạ lưu qua vách cửa bỗng cuộn mình, phô bày tất thảy sự cuồng nộ, sức vóc và tính khí bất kham của nó. Nước đỏ lự phù sa gầm thét, quăng quật, lồng lộn giữa bốn bề bê tông vững chãi. Thuở bé con, tôi đã mê mẩn những áng văn của Nguyễn Tuân trong bút ký “Người lái đò sông Đà”. Và giờ đây đi dọc triền sông mùa nước cường hung bạo, những dòng văn tuyệt tác ấy vẫn gợi về trong tôi náo nức: “ Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến như cuả sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa...”. Tôi đến sông Đà vào mùa thu và soi mặt vào đáy sông qua làn nước “lừ lừ chín đỏ” ấy để thấy dẫu biến thiên thời gian và tháng năm, sông vẫn thế, phát tích từ Vân Nam, trườn mình về đông, vào đất Việt và nhập với sông Hồng nơi ngã ba Trung Hà với chiều dài trên 883 nghìn mét. Sông đi qua bảy mươi ba cái thác có tên trên bản đồ và nhiều nhiều cách trở nơi núi cao, vực thẳm, ghềnh đá, đất bồi, sông vẫn giữ được cốt cách can trường, kiêu hãnh, bộc trực, thuỷ chung như người dân miền biên viễn, thời nào cũng vậy, có giặc phạm vào nơi địa đầu Tổ quốc là đánh. Dẹp xong giặc, lại lên nương, đốt nương sưởi ấm cả vùng rừng Tây Bắc, lại gieo hạt ngô trên cao nguyên đá, lại lùa ngựa, chăn bê trên những triền xanh ngút ngát và thổi khèn môi tìm bạn tình. Những lúc rảnh rỗi, xuống chợ, ăn thắng cố, uống rượu ngô, say, có vợ xòe ô che nắng, ngủ vùi bên vệ đường hoặc nắm lấy đuôi ngựa mà ngược dốc về bản, mặt đỏ lừ như nước sông Đà vào mùa thu cuộn sóng...
Đà giang-cái tên thân thương nơi miền ải Bắc trong công cuộc xây dựng đất nước hôm nay còn mang trên mình trọng trách làm ra thật nhiều điện năng cho Tổ quốc và vì thế nó cũng được dành thật nhiều sự quan tâm đặc biệt của cả nước. Trong đợt cao điểm nắng hạn vừa qua, tin tức về mực nước của sông Đà đã được cập nhật thường xuyên trên VTV. Mực nước sông Đà xuống thấp kỷ lục là một điều quan ngại kéo theo không biết bao nhiêu hệ luỵ khi nguồn điện bổ sung thay thế từ nguồn Nhà máy thủy điện Hoà Bình chưa được tính đến. Bên cửa tràn ầm ào nước lũ đầu vụ, anh cán bộ kỹ thuật của nhà máy cắt nghĩa cho tôi hay rằng những sự cố nhỏ xãy ra như vừa qua phần lớn có nguyên nhân từ thiên tai khốc liệt. Những năm gần đây, tình hình thời tiết thuỷ văn diễn biến phức tạp, khó lường. Đây là yếu tố có tính quyết định đến hiệu quả hoạt động của nhà máy. Lượng nước về hồ Hoà Bình thất thường so với trung bình nhiều năm. Cả năm 2004 chỉ bằng 81,6%. Đặc biệt đầu tháng 1/2003 có trận lũ lớn trái vụ chưa từng thấy trong vòng 100 năm qua trên sông Đà với lưu lượng đỉnh lũ lên đến trên 5.300 m3/s trong khi mực nước hồ đang tích ở mức cao trên 116 mét (giới hạn cho phép không vượt quá 117 mét) đe doạ trực tiếp đến an toàn công trình và vùng hạ du...
-Tình hình máy móc, thiết bị, thưa anh...
-Anh cũng đã biết rồi đấy. Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình là một món quà đặc biệt quý giá mà Chính phủ và nhân dân Liên xô trước đây tặng cho đất nước ta. Đây là kết quả của sự hợp tác toàn diện, hiệu quả giữa tinh thần lao động sáng tạo, quên mình của đội ngũ cán bộ công nhân Việt Nam và thành tựu khoa học kỹ thuật, chuyên gia lành nghề Xô viết. Tuy nhiên, tổ máy số 1 đưa vào vận hành đến nay hơn 16 năm rồi. Tổ máy số 8 là tổ máy cuối cùng đưa vào vận hành đến nay cũng đã được hơn 10 năm. Do đó công trình và thiết bị phát sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết như các vị trí xói lở, cồn bãi đá lòng sông ảnh hưởng đến an toàn và dòng chảy hạ lưu công trình, củi rác tích tụ nhiều ở lưới chắn rác cửa nhận nước làm giảm công suất phát điện và không an toàn cho các tổ máy. Nhiều thiết bị đã hư hỏng, không ổn định, năng suất kém cần thay thế...
Tôi trầm tư nhìn xuống mặt nước sông Đà đang thẩm lại trong buổi chiều muộn xứ Tây Bắc thương yêu. Ngàn lau đang phất phơ trước mặt. Ngàn lau gợi nhớ trùng trùng giáo gươm thuở cha ông trấn miền biên ải. Mỗi tấc đất ngọn cỏ nơi đây là chốn dồn tụ nỗi nhớ niềm thương và máu xương cháu con cả nước kiêu hãnh giữ yên bờ cõi. Thoảng trong gió thu là ấm áp hơi nếp nương và bùi thơm hương trám. Món ẩm thực "dê núi đá, cá sông Đà" còn vang danh cho đến tận bây giờ. Những bình nguyên xanh mở ra hút tầm mắt, lô nhô ruộng bậc thang, màu áo chàm thấp thoáng lẫn trong khói sương và hương hồi ngan ngát... tất cả như đi ra từ một huyền sử bi tráng và lộng lẫy thuở cha ông đi mở đất. Nguyễn Tuân đã viết trong “Người lái đò sông Đà”: " Thời cũ tên con sông Đà lại được dùng làm tên đạo tên lộ. Trong số 15 lộ hành chính đời Trần, có Đà Giang lộ gồm những đất đai từ tỉnh Hưng Hoá ngược lên. Và người xưa cũng đã tha thiết với sông Đà. Chánh sứ sơn phòng đồn Hưng Hoá Nguyễn Quảng Bích, một nhà thơ ái quốc thời đó, chống Pháp và mất ở Tây Bắc (lúc ấy từ Hưng Hoá ngược lên đều gọi là Tây Bắc) đã đem sông Đà vào một bài thơ họa lại thơ Tôn Thất Thuyết:
... Lòng trung không nở bỏ Tây Châu,
Giữ lấy Thao, Đà dãi thượng lưu...
Hôm tôi lên sông Đà, Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình đang chuẩn bị Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ mới. Người bạn đồng nghiệp báo Hoà Bình đã chuẩn bị cho chúng tôi đầy đủ tư liệu về nhà máy để chứng minh rằng trong tương lai nhà máy vẫn đóng một phần cực kỳ quan trọng trong việc cung cấp điện năng cho đất nước cũng như chống lũ, chống hạn cho vùng hạ du. Chỉ tính riêng năm 2004, Nhà máy đã hoàn thành kế hoạch phát sản lượng điện trước 21 ngày, đạt 8406triệu kwh và vượt kế hoạch 3,8%, chiếm tỷ lệ gần 18 % sản lượng điện toàn quốc. Hiệu suất sử dụng nước để phát điện đạt 85,6% cao nhất từ trước đến nay. Nhà máy đã góp phần quan trọng để ngành Điện Việt Nam hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch 5 năm trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, đạt 44 tỉ kwh/năm trước 1 năm 21 ngày.
Mai sau, dẫu đất nước có điều kiện dùng phản ứng nhiệt hạch để làm ra điện, Sơn La cao ngất trên kia có thêm công trình thủy điện tầm cở châu Á rồi tất cả các con sông đều có cơ hội quặn mình để làm ra điện cho Tổ quốc...thì sông Đà vẫn vững vàng một chỗ đứng trong lòng người ngưỡng vọng, một con sông hung hãn phải ngoan hiền dưới bàn tay trị thuỷ của con người, góp dòng điện sáng đầu tiên ngày đất nước bắt đầu công nghiệp hóa.
Người bạn hẹn đón tôi lên Mai Châu nhưng tôi lại xuôi sông Đà về Đất Tổ. Ngày xa, bạn không nói gì nhưng sông Đà thì vẫn chưa thôi gầm thét. Có phải nụ cười em gái Mai Châu đã khiến cho sông Đà cứ reo vui bất tận giữa khoáng đạt đất trời Tây Bắc?
Đ.T.T