lặng ngồi im dưới gốc bàng
lắng nghe văn tế đình làng xa xưa
bảy trăm năm mấy ngàn mùa
Thành hoàng ngự, những triều vua qua rồi
sắc phong vương, khắp bể khơi
tích thuyền đánh giặc gặp trời bão giông
ngài Nguyễn Phục hiểu Biển Đông
hoãn buồm chèo, kẻ bạc lòng sàm tâu
người trung nghĩa phải rơi đầu
Hải Dương thờ, vua Lê đau lệnh mình
nỗi oan từ đó hiển linh
hồn phúc thần ngự vào đình Kẻ Diên
ngược sông Mỹ Chánh, bưng biền
cầm quân triều Mạc trung kiên tướng thần
tổ tiên – giặc Minh xâm lăng?
nhiều đời hậu duệ trách căn cước mình
bi kịch huyết thống tội tình
sáng tỏ ra, khi hi sinh, kiệt cùng
Hoàng Bôi vẫn đấng anh hùng
Mạc triều phong phúc thần chung mấy làng
giữ yên đồng ngọc, rừng vàng
mênh mông biển bạc Hải Lăng quê nhà
Chiêm tặng đất lại quay ra
sông Khung dậy sóng Lào qua, phải về
tướng thần thuở mục ngai Lê
Lê Cử Nồng lại lắng nghe vận trời
phúc thần, triều Mạc lên ngôi
Trung Trinh Bá Thượng Xá ngời linh thiêng
gốc Kẻ Diên sáu người hiền
văn tế ngân tên họ riêng, tôn thờ
ngài Phan Khắc Ngạn giỏi Nho
làu kinh sử từ tuổi thơ danh lừng
đuốc gươm Ái Tử sáng trưng
Chúa Tiên vời dạy, sống cùng cháu con
ra Bắc đuổi Mạc lên non
Chúa giao chính sự, trăm dồn một tay
miếu Quan Đốc ấy, hương bay
cùng nến thắp miếu Quan Cai anh hùng
họ Nguyễn Tín, vút dây cung
kiếm ngời rồng lượn, ngựa lưng chừng trời
giận Chiêm, xót máu Chiêm rơi
ngài chùn tay, máu ngài nơi ngực ngài
ngựa cõng về Kẻ Diên này
Ninh Bảo hầu, hồn xưa nay Thành hoàng
quan trấn Lao vó ngựa vang
họ Nguyễn Văn, gươm ướt trăng giữ rừng
thấy trong hương khói tế chung
chốn sơn phòng Nguồn Hãn cùng Non Mai
Kẻ Diên cường tráng sức trai
“Ô Châu cận lục” không dài chữ ghi
đến Chúa Nguyễn vẫn uy nghi
ngài Cai đội Cẩm Long thi luyện người
Kẻ Diên, Chúa Nguyễn mấy đời
tin dùng tài trí, xa soi gương gần
như Lý Thường Kiệt tịnh thân
làm quan dinh Chúa chữ dâng mực mài
Nguyễn Văn, phổ ý đẹp hoài
tế đình thôi lẻ ba bài vị cô
người làng sáu vị, ngai thờ
phúc thần ba đấng vua cho sắc về
lời trong xưa thẳm, vọng nghe
Nguyễn Văn, Nguyễn Tín vai kề Phạm Văn
- ba tiền khai khẩn, triều Trần
hậu khai canh, bảy di dân cuối Hồ:
Phan, Dương, Trịnh, đầu Lê sơ
Trần Văn, Lê, Đặng, Hoàng vô chung lòng
Trần Thanh, Phan Ðình, nối công
Nguyễn Như, Trần, Nguyễn sức đồng Chúa Tiên *
gốc bàng, lắng nghe lời thiêng
yêu làng, văn tế thề nguyền núi sông
mười lăm, truyền mười hai dòng *
tôi ngụ cư không ngoài lòng Kẻ Diên
nhiều năm thoảng gợn, an nhiên
vào Nam suy ngẫm, tập thiền bao dung
nhân thần chống Lê trung hưng
Lê trung hưng vẫn không ngưng phong thần
trung nghĩa còn, triều đại tàn
hậu triều không phế sắc ban tiền triều
mỗi triều riêng mỗi kính yêu
- Trạng Trình phò Mạc rồi tiêu dao về. *
04-02-2023
(Mười bốn, áp Rằm Nguyên tiêu Quý Mão HB23)
T.X.A
……………….
(*) ~ Ngoài các ngài nhân thần do các triều đại sắc phong (ngài Nguyễn Phục người tỉnh Hải Dương, ngài Hoàng Bôi người làng Câu Nhi bản huyện Hải Lăng, ngài Lê Cử Nồng người làng Thượng Xá, địa danh cũ là Hoàng Xá, cũng thuộc bản huyện), còn có lục vị tiền quan là người gốc Kẻ Diên (ngài Phan Khắc Ngạn, ngài họ Nguyễn Tín, ngài họ Nguyễn Văn, và ba ngài khác cũng thuộc họ Nguyễn Văn). Trong sáu vị quan thời Chúa Nguyễn, gọi là tiền quan, có bốn vị tịnh thân như danh tướng Lý Thường Kiệt đời Lý. Đó là ngài quan thái giám Phan Khắc Ngạn, ba ngài quan thái giám họ Nguyễn Văn. Cũng là thành hoàng của làng gồm các tiền hiền, hậu hiền của mười lăm họ tộc chính cư làng Kẻ Diên (Diên Sanh): “Ba ông tiền khai khẩn, bảy họ hậu khai canh (có lục vị tiền quan), ngũ phái tiếp công nối sức”. Nói tắt là “Ba ông, bảy họ, lục vị tiền quan, ngũ phái”. Trong mười lăm họ chính cư, có ba họ vô tự, nhưng vẫn có bài vị ngai thờ ở đình làng. Như vậy, tổng cộng là hai mươi bốn bài vị: Ba ngài nhân thần, sáu ngài tiền quan, mười lăm ngài tổ của mười lăm họ. ~ Nguyễn Bỉnh Khiêm, sinh: 1491; đỗ trạng nguyên: 1535 (ông đã 44 tuổi, triều Mạc đã định ngôi vua được 8 năm) và làm quan dưới triều Mạc 8 năm, từ 1535 đến 1543 (cáo quan khi độ 52 tuổi); mất: 1585 (94 tuổi). Dương Văn An (1514-1591), đỗ tiến sĩ năm 1447 (triều Lê), tác giả tục biên “Ô châu cận lục” (1553), cũng làm quan dưới triều Mạc. Nhà Mạc thành lập: 1527 và bại vong: 1592 (65 năm), nhưng vẫn tồn tại ở Cao Bằng đến tận 1677.