V |
ới tôi mùa thu này náo nức hơn khi biết mình được về dự trại sáng tác của Liên hiệp các Hội VHNT toàn quốc, tổ chức tại Hà Nội. Trong thâm tâm tôi mong gặp được một số anh chị em văn nghệ sỹ ở Huế và Quảng Trị ra. Chờ từ ngày 26-7-2001đến hôm khai mạc không thấy ai. Sau có nghe tin Trần Hữu Tháp ở Huế không ra được. Còn đại diện của Quảng Trị thì sau đó một ngày mới thấy lệnh khệnh ra đến nơi. Đó là nhà thơ Hải Hiền, tên cúng cơm là Trần Đức Trực. Dáng vóc anh to lớn, mái tóc bơ phờ. Nụ cười cởi mở nhưng... móm hai răng cửa. Hai cái ba lô bé tí tẹo trên tấm lưng phản phạt xuống. Hải Hiền hỏi tôi:
- Anh ở Liên hiệp phải không? Tôi xin đăng ký ngoại trú.
- Không ạ! Tôi cũng là "trại viên" thôi. Ở Phú Thọ anh ạ. Hải Hiền vồ lấy tay tôi lắc lắc:
- Phú Thọ có Đền Hùng phải không? Nì! Cả đời tôi còn mỗi một mong muốn được thăm Đền Hùng đó ông!
Tôi mời anh bữa nào rảnh lên thăm Đền Hùng. Nhà tôi ở cách đền có tám cây số.
Từ hôm đó chúng tôi kết bạn, rồi thân nhau, mặc dù tôi và anh hai tính cách khác biệt.Tôi trầm tính, ngại va chạm, cay đắng. Anh ồn ào, dễ gần "ăn sóng nói gió". Lại nghiện rượu và thuốc lào.
Một hôm nhà thơ Huy Cận nói chuyện với trại viết có hỏi:
- Ở đây có ai người Vĩnh Linh, Quảng Trị không?
Hải Hiền đứng bật dậy dõng dạc:
- Dạ có tui.
Thế ra bác Huy Cận cũng có rất nhiều kỷ niệm với Vĩnh Linh, Quảng Trị thời kỳ chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, khi nhà thơ đi thực tế sáng tác.Tôi rưng rưng nước mắt cảm động cùng Hải Hiền. Chẳng riêng gì tôi, còn rất nhiều người gắn bó với Quảng Trị. Hóa ra Quảng Trị không của riêng Hải Hiền, mà còn là của bao người, trong đo có anh em, đồng đội tôi hy sinh đổ máu những ngày chiến tranh khốc liệt. Tôi chiêm nghiệm điều đó và càng thấy đúng. Ngày mùng 8-8-2001, anh Vũ Quần Phương dẫn đầu tổ thơ của trại viết lên thăm và giao lưu với anh chị em trong Hội VHNT tỉnh Vĩnh Phúc ở Đại Lãi. Tình cảm chung thì không phải nói. Thắm thiết lắm, chân tình lắm. Nhưng có mấy ông bạn già, vốn là cựu chiến binh hồi Quảng Trị cứ bám riết lấy Hải Hiền làm chúng tôi cũng phải ghen tỵ. Họ hỏi anh:
- Này! Đường Chín – Khe Sanh bây giờ thế nào? Dễ đi chưa? Do Linh còn đất đỏ
- Ôi chao! Đường Chín giờ chạy thẳng qua Lào rồi. Còn Do Linh bây chừ vườn cây, trang trại xanh ngát. Các anh vô sợ không nhận ra chỗ cũ.
Ngay hôm ấy tôi mời Hải Hiền một chuyến "thượng du" lên Phú Thọ. Cùng đi với chúng tôi có nhà thơ Tạ Phú Sĩ ở Kon Tum và nhà văn Thu Nguyệt ở Thái Bình. Cả ba người đều chưa đến đền Hùng bao giờ. Nhìn Hải Hiền hăm hở bước theo từng bậc đá lên đền Hùng, tôi thấy mắt anh sáng rỡ, mọng nước. Trong khi Tạ Văn Sĩ lăng quăng chạy tìm mua tập giai thoại thơ Bút Tre, Hải Hiền đứng rất lâu trước nhà bảo tàng Hùng Vương, theo dõi tỉ mỉ từng hiện vật cổ. Đến đền nào anh cũng hương khói, khấn khứa cẩn thận. Đúng là điển hình cái tâm, cái đạo của người miền Trung. Ở trên đền Thượng, anh đứng dõi mắt mãi cuối chân trời, nơi có ba con sông hợp lưu ở ngã ba Hạc Trì. Xung quanh núi Nghĩa Lĩnh chập chùng những dải đồi nhấp nhô mà truyền thuyết gọi là 99 con voi chầu về đền Hùng. Anh nghĩ gì. Suy tưởng gì. Chúng tôi không thể biết, nhưng cái hồn thi sĩ của anh thì rõ ràng đã trải khắp miền rừng cọ đồi chè.
Một ấn tượng khó quên nữa là khi Hải Hiền bước chân đến thị trấn Phúc Lộc quê tôi lúc hai mươi giờ. Ông chủ quán ăn tên là Cận đã ôm lấy Hải Hiền khi tôi giới thiệu: "Đây là bạn thơ của tôi, anh ấy người Quảng Trị".
- Ôi chao ôi! Em bảy năm lăn lộn với Quảng Trị đây! Cái Thành Cổ của mình giờ nó thế nào rồi hả bác?
Họ đã đương nhiên coi Quảng Trị là "của chung". Còn bà cụ Tiến cạnh nhà tôi có cô con gái lấy chồng Quảng Trị từ nhiều năm nay, nghe có người trong đó ra thì cũng lọ mọ chạy sang hỏi thăm:
- Cháu nó lấy chồng Do Linh bác ạ! Chẳng biết đời sống thế nào. Chồng nó là thằng Quốc, trước học Nông nghiệp ngoài này. Không ngờ Hải Hiền cũng biế chàng rể Phú Thọ ấy.
- Thế thì chú Quốc trưởng phòng nông nghiệp huyện rồi. Mẹ yên tâm! Vợ chồng hắn giờ cũng khá lắm rồi.
Hai ngày làm khách nhà tôi. Hải Hiền lại thuộc về những người đã một thời Quảng Trị. Chuyện họ gắn bó với những địa danh Khe Sanh, Cửa Việt, động Ông Do, đồi 91... có đêm Hải Hiền còn bị mời đi chơi đọc thơ uống rượu say mèm, về đến nhà dang tay dang chân ngáy như sấm. Nửa đêm vực dậy viết tặng vợ chồng tôi bài thơ, mà hôm sau tôi dịch mãi không ra. Đưa cho anh anh cũng lắc đầu chịu không đọc nổi chữ mình. Nhưng Hải Hiền quả quyết đó là bài thơ hay lắm, về trong đó anh sẽ dịch sau. Rất may là vợ tôi đã dịch được bài thơ của anh (cô ấy trước vốn là thư ký). Bài thơ vợ tôi dịch như sau:
TẶNG HỌ PHÙNG
Những câu thơ chợt đến
rồi
chợt đi
Bến bờ nào neo đậu
Hạ Long chờ
Trả cho tôi
mắc cạn
Chín mươi chín con rồng
Còn một con
Ở đây
Núi Hùng ơi...
(Nghĩa Lĩnh 8/8)
Bài thơ thoát ý lại phảng phất hơi say của rượu, của tình. Đúng là thơ Hải Hiền. Mà vợ tôi có biết làm thơ bao giờ mà "dịch" hay thế.
Đã lâu lắm tôi không nhận được tin tức của Hải Hiền mặc dù vẫn gửi thư, gửi sách cho anh. Không biết anh đang mê mải "bầu rượu, túi thơ" ở nơi nào? Không biết anh có khỏe và làm thơ đều không. Chợt nhớ anh. Nỗi nhớ Quảng Trị. Những người dân quê tôi từng biết anh, thi thoảng vẫn hỏi thăm: "Cái bác Quảng Trị bạn của anh có ra chơi nữa không?". Tôi gật đầu: "Có chứ ạ!". Và tôi chờ.
P.Q