Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 28/03/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Cái đẹp cần có và thơ hiện nay

N

ói đến cái đẹp trong thơ là nói đến đối tượng cảm thụ thẩm mỹ của nhà thơ, của nhà phê bình và của người đọc trước những hiện tượng Chân- Thiện- Mỹ trong thiên nhiên, trong xã hội và trong con người, được nhà thơ viết bằng nhiều phong cách, bút pháp, giọng điệu khác nhau. Bài này muốn dừng lại ở khâu cảm thụ cái đẹp của nhà thơ và từ đó mà tác động tới cảm thụ của người đọc nhiều hay ít, lâu bền hay thoáng qua, nói gọn: Là câu thơ, bài thơ có đứng được trong lòng người đọc? Phải thừa nhận rằng, hai thập kỷ gần đây, mặt bằng sáng tạo thơ cao hơn, nhiều nhà thơ ráo riết đi tìm cái mới, đội ngũ những người làm thơ đông đảo hơn, hàng năm có tới hàng trăm tập thơ của nhiều nhà xuất bản ra đời. Nhưng tại sao hiện nay chưa thấy những nhà thơ nổi bật, ít bài thơ hay, thiếu nhiều câu thơ đẹp. Đi tìm nguyên nhân của thực trạng trên, chúng tôi lạm bàn mấy vấn đề lý luận về cái đẹp cần có trong thơ, may ra có thể giúp ích cho sự sáng tạo của nhà thơ, nhất là người viết trẻ.

Lý tưởng xã hội của nhà thơ là ngọn lửa chiếu sáng con đường sáng tạo

Làm thơ là sáng tạo, là đam mê, có khi say nhiều hơn tỉnh. Người cổ đại gọi nhà thơ là “Nhà tiên tri”. Muốn vậy, thì nhà thơ phải có tài đã đành, nhưng trước đó phải có lý tưởng xã hội; lý tưởng xã hội là năng lượng nằm trong bầu máu nóng của nhà thơ, là mục đích cao nhất, là lẽ sống đẹp nhất của anh ta.

Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà thơ lớn cổ điển tự gọi mình là “nhà thơ công dân”. Nhà thơ phải là “Tiếng dội” của đời sống xã hội. Viết cho ai, viết để làm gì? vẫn là hai câu hỏi tưởng như không khó trả lời, nhưng thực tiễn sáng tạo thơ ở một số hiện tượng làm người đọc không yên lòng. Những hiện tượng một số nhà thơ trẻ tự khẳng định mình sớm, muốn nổi danh ngay (như một số ca sỹ bên sân chơi nhạc trẻ), những tuyên ngôn thơ vừa cao ngạo vừa ngậm ngùi, thậm chí vô trách nhiệm đối với bạn đọc, những câu thơ buông tuồng, thô thiển thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trên những trang báo.

Trau dồi lý tưởng xã hội là tiền đề của sự hình thành lý tưởng nghề nghiệp mà ba điều bất hủ của một đời thơ thì lập đức được coi hàng đầu rồi mới nói đến lập công, lập ngôn. Văn chương thơ ca là nghiệp của ngàn đời (Văn chương thiên cổ sự), nhà thơ chỉ là con ông khôn ngoan biết đi hút mật ở các loài hoa về xây tổ ấm thơ ca của cộng đồng, chứ không đi đốt bậy người đời, dễ bị người ta châm lửa, hun khói xua đuổi, có khi vỡ cả tổ. Bản chất xã hội của nhà thơ là người con của xã hội, là hơi thở của thời đại. Cái đẹp của câu thơ phải đến với nhiều người, càng nhiều càng tốt. Còn chuyện đi tìm cái tự do tuyệt đối của nhà thơ, thơ ca chỉ là ảo ảnh của cuộc đời, thơ ca được viết không cho ai cả, thú thật chỉ là chuyện viển vông. Đó là chưa kể khi tâm hồn nguội lạnh, thái độ dửng dưng của nhà thơ trước những hiện tượng nóng bỏng của xã hội, thì nói gì đến câu thơ đẹp, có ích cho đồng loại (!?). Nói bản chất xã hội của nhà thơ hiện nay cần sòng phẳng hai chuyện: Giới phê bình, có lúc lẽ ra phải hướng dẫn kỹ thuật, kỹ xảo làm thơ, thì họ lại đi dạy lập trường chính trị; minh hoạ chủ trương chính sách bằng thơ vần vè là chuyện của những báo cáo viên tuyên huấn thì một số nhà thơ lại sa vào xu hướng chính trị hoá thơ ca một cách dễ dãi và lộ liễu. Hai căn bệnh đó vốn tồn tại đã lâu, nhưng nay đã được đẩy lùi, nhờ sự tự ý thức sáng tạo. Nhưng từ đó có người ngây thơ nông nổi nghĩ rằng, chỉ cần mới, cần lạ, cần hay là được, không cần gì lý thuyết, không cần gì bản sắc dân tộc, không cần gì những giá trị truyền thống…, họ ném ra ngoài xã hội nhiều câu thơ vụng về, khó hiểu, thậm chí có hại, đánh tráo cảm thụ thẩm mỹ của người đọc. Trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của nhà thơ ở đâu? người làm thơ có quyền viết bất cứ đề tài nào, lấy thi hứng từ bất cứ hiện tượng xã hội nào, nhưng khi bài thơ ra đời, nó không còn là của anh (chị) nữa mà là của xã hội, là đối tượng cảm thụ của hàng trăm nghìn thị hiếu khác nhau. Khen- chê, chấp nhận- từ chối là chuyện của dư luận xã hội. Nhà thơ không vì thế mà cao ngạo khi được khen và trách cứ, thậm chí chán nản lúc bị chê. Hiệu quả của sự khen- chê nằm ở tài năng, trước hết là ở tấm lòng của người viết, ở lý tưởng mà nhà thơ đam mê. Linh hồn của thơ ca hai cuộc kháng chiến chống xâm lược được thắp sáng bởi lý tưởng xã hội của nhiều nhà thơ và sự cảm thụ cái đẹp của người cùng thời đại. Chính vì vậy mà nó có sức sống lâu dài.

Sự  chân thật tối đa trong cảm xúc thẩm mỹ

Trong thơ ca, tài năng gắn liền với sự chân thật. Trong văn học kháng chiến của ta ở hai giai đoạn có nhiều bài thơ viết về đề tài mất mát, bi thương, mặc dầu kỹ thuật chưa được điêu luyện, ngôn ngữ chưa thật được trau chuốt, nhưng vẫn đọng lại sâu thẳm trong lòng người đọc nhiều thế hệ, kể cả thế hệ hôm nay: Màu tím hoa sim, Núi đôi, Quê Hương, Hương thầm, Cuộc chia ly màu đỏ v.v. Bí quyết thành công của những câu thơ hay, đầy xúc động nói trên là gì vậy?- Tài năng. Vậy tài năng trong sáng tạo thơ ca nằm ở đâu? Trước hết là ở sự chân thật. Có đau thì nói đau, nỗi đau của người trong cuộc. Sự giả dối trong thơ dễ bị người đọc lật tẩy. Loại hình nghệ thuật nào cũng cần có sự chân thật và sự chân thật trong nghệ thuật thường là cái được phản ánh sự thật cuộc sống, nhưng ở thơ đòi hỏi sự thật tối đa. Vì ở đấy nhà thơ và nhân vật trữ tình là một, trùng khít đến mức khó tách làm hai. Mọi thứ giả vờ, làm dáng, cường điệu cảm xúc của người viết thật xa lạ với tính chân thật trong thơ. Một bài thơ trữ tình của Nguyễn Văn Hiếu không có kỹ xảo cao siêu, không có ngôn từ mới lạ, thế mà làm người đọc xiêu lòng, xót xa vì mối tình dang dở, đớn đau, chua xót của nhiều người, chứ không riêng gì nhà thơ, bài: Ngày em lên xe hoaNgày em lên xe hoa/ Tôi chỉ còn gió thổi…/ Ngõ chiều ngơ ngác đau/ Giọt chiều hiu hắt rõ/ Nẫu lòng trầu, lòng cau/ Em quên tôi từ đó./ Tôi thành con ốc biển/ Ngậm mặn chát vào lòng/ Tôi thành hòn đá sạm/ Lạnh lẽo chiều bão giông. Bí quyết? Sự chân thật tối đa.

Viết về biển, về thiên nhiên gần đây, nhiều nhà thơ, nhất là các nhà thơ nữ đã thành công nhờ cảm thụ cái đẹp chân thật trước một hiện tượng thiên nhiên vừa hiền hoà vừa dữ dội, vừa dịu êm vừa cuồng loạn. Trần Thị Huyền Trang với bài: Viết trên sống: Ta bảo sóng/ Ta vừa thêm một tuổi/ Quảng thanh xuân lùi lại phía sau rồi/ Vẫn còn chút dại khờ như cát ấy/ Tưởng cánh buồm gọi cả trùng khơi. Lê Khánh Mai muốn tâm sự với sông, với mây, với gió bằng lối thiết kế ý tưởng thơ lôgich để chia sẽ nỗi niềm của nhân vật trữ tình: Này sông!/ Về đâu vội vã/ Bỏ ta đứng lại bên trời/ Đợi ta hoá thành chiếc lá/ Theo dòng ra bể rong chơi… còn khi đã có biển rồi thì Nguyễn Thị Ngọc Hà (trong bài Gặp lại bóng mình) mượn “Biển đầy làm ta ngợp sóng” để nói hộ số phận đa đoan, tâm trạng cuồng vọng mà vẫn chưa ôm trọn được người tri âm, tri kỷ, và rợn hơn trước nỗi hư không của sống biển mà “Nửa đời hoang vắng chẳng thấy bờ” (Thiếu phụ trước biển). Thông thường khi làm thơ, nhà thơ khó phân biệt được đâu là trái tim, đâu là bộ óc, đâu là cảm xúc đâu là trí tuệ, nhưng phải thừa nhận hình tượng thơ được loé lên, được bật sáng chỉ khi tình cảm chân thật được thăng hoa, dồn nén một năng lượng tinh, khí, thần được gạn lọc và viết nên thơ như người xưa đã tổng kết.

Tri thức văn hoá tổng quát, tri thức triết mỹ làm điểm tựa của sáng tạo thơ.

Có nhà mỹ học nói, mọi thể chế chính trị rồi sẽ qua đi, nhưng câu thơ đẹp thì vẫn còn. Điều đó đúng khi cái đẹp trong thơ phải gắn với đạo đức xã hội. E.Căng có lần nói đại ý: Lý tưởng của chân lý là của Trời; còn lý tưởng của cái đẹp là Con người. Cái đẹp của con người bao giờ cũng gắn với đạo đức. Cái trước nằm ở giai đoạn của cảm thụ tự nhiên, còn cái sau là cái phải trở nên. Thơ ca lại càng như vậy, lý tưởng của nhà thơ, năng lượng thẩm mỹ của nhà thơ nằm ở sức hút nam châm mọi cảm thụ cái đẹp của người đọc. Không có lý tưởng hoặc lý tưởng hời hợt, không bắt nguồn đời sống, quay lưng lại một số phận con người, thì mọi tìm kiếm cái đẹp cái mới của nhà thơ trở thành con số không tròn trĩnh.

Tri thức thẩm mỹ trong văn hoá dân tộc và thế giới không chỉ là sự trang sức cho những hình tượng thơ, mà phương thức khái quát hoá, là công cụ của kỹ xảo nghề thơ. Điểm tựa để hoàn thiện kỹ năng văn chương là sự tư duy khái quát, là trình độ hiểu biết triết hoc- mỹ học, kể cả mỹ học dân tộc. Đọc thiên kinh vạn quyển thì cũng quý, nhưng sức người có hạn, vì vậy từng nhà thơ tìm ra cách đọc của mình. Cha ông ta trong lòng hàng năm dựng nước và giữ nước đã sáng tạo ra một nền văn hoá có bản sắc riêng, nhưng phải thừa nhận rằng, cha ông ta không quen làm nghệ thuật học, mỹ học thì thiếu hệ thống. Nhưng lạ thay! Những gì còn trong di sản vẫn lấp lánh hào quang trí tuệ của người xưa, những tổng kết mỹ học của cha ông vẫn thấm đậm màu xanh. Cách đây hàng trăm năm, khi bàn đến bản chất của văn chương Nguyễn Văn Siêu (1796- 1872) đã chia văn chương thành hai loại: Loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Còn hiện thiện tả ý là gì? nếu không phải là sự nhất thể hoá hiện thực và siêu thực, cái có lý và cái phi lý, cái ý thức và cáivô thức, cái lôgích và cái trực giác. Đó là chủ nghĩa hiện thực mở, cái lôgích, cổ điển, mẫu mực thật xa lạ với chủ nghĩa minh hoạ, chủ nghĩa tự nhiên trong thơ. Tương sinh- tương khắc trong nghệ thuật biểu diễn là gì? nếu không phải là nguyên lý bất định trong khoa học hiện đại: trái ngược nhau không phải là mâu thuẫn, mà chúng bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau, nhưng lại hạn chế nhau. Đó là phép biến chứng của đời sống.

Tri thức triết mỹ trong thơ ca là điểm tựa của tài năng, của tầm nhìn, của sự chọn lọc định hướng sức bay của trí tưởng tượng. Có tài mà cậy chi tài! Trái lại phải cậy học vấn, học vấn xin đừng nhầm lẫn với bằng cấp mà là thực học, thực tài. Người làm thơ không biết trước, biết sau; biết trong biết ngoài, biết Đông biết Tây thì khác nào anh lính không có vũ khí. Có thể có học vấn cao mà thơ không hay hay, nhưng đã có bài thơ hay, câu thơ đẹp thì người làm thơ có học vấn rồi đấy. Cha ông ta xưa thường dạy: “Bản chất của văn chương là tự học vấn mà ra, học vấn uyên bác thì viết văn mới hay. Có lẽ đâu văn chương lại làm cho người ta kiêu căng”!? (Lê Quý Đôn 1726-1784). Phan Huy Chú cũng nói đại ý: “Để có thể trở thành nhà trước tác vừa nhà thơ, phải đủ uyên bác, lại có nguồn cảm hứng bay bổng…, khẳng định con đường đi tìm người tài giỏi trước hết là nguồn khoa mục, nhưng cần phải cân nhắc. Nếu chỉ thiên về một lối, sao lấy được  người tài?”.

Học tập nước ngoài là cần thiết nhưng phải biết mình là ai? Và viết cho ai đọc?

Hiện nay trí tuệ của nhân loại đã trở thành một khối lượng khổng lồ những tri thức vừa cao siêu vừa thiết thực, những thông tin vừa bổ ích vừa trái chiều, cho nên việc đi tìm những kiến thức về khoa học, công nghệ, về văn hoá nghệ thuật để ứng dụng vào lý thuyết thơ và sáng tạo thơ cũng phải liệu sức mình, giống như đi bơi trong biển cả, phải biết cách đọc, cách tiếp nhận chớ tuyệt đối hoá một hiện tượng nào. Tất cả đều phải xuất phát từ đời sống tinh thần dân tộc mình. Nhiều thập kỷ qua, các nhà khoa học, các nhà thơ đã nhiệt tâm bàn đến mối quan hệ giữa khoa học và nghệ thuật. Nhiều ý kiến xác định gợi mở cho sự cách tân. Ơgiêni Phainơbec (một nhà vật lý hiện đại) trong bài: “Nghệ thuật và nhận thức” đưa ra nhiều luận điểm và những chứng giải có sức thuyết phục. Ông viết “Nhận thức bằng trực giác, nghệ thuật chứng minh tính hạn hẹp, bất túc của nhận thức và do đó tăng cường tri thức của tri thức trực giác chân lý nói chung và ở các khoa học chính xác nói riêng. Nó phá vỡ quyền của tư tưởng phân tích lôgích, cái sẽ đưa con người đến chỗ bất lực. Rồi đưa ra câu định nghĩa về thơ của O.Manđenxtam: “Thơ là ý thức mình có lý”, có lý là có chân lý, không thể lý giải mà là chân lý được tri phác bằng trực giác, khẳng định vững chắc bằng những phương pháp nghệ thuật”.

Nhà thơ Lê Đạt cũng sớm có ý thức đổi mới phương pháp sáng tác thơ. Trên báo “Văn nghệ” đặc san thơ số 25 - (2005) ông viết bài Thơ và vật lý hiện đại phê phán những quy tắc cứng nhắc, nghiệt ngã nhiều khi bảo thủ của ý tưởng và ngôn ngữ, rồi đưa ra định nghĩa thơ nói cho cùng là “Hành vi phát nghĩa” và coi “Cấu trúc gián đoạn” là nền tảng chủ yếu của thơ hiện đại phá vỡ “Cấu trúc liên tục” đã từng thống trị trên thi đàn. Nhưng khi ứng dụng vào thực tiễn sáng tạo thơ, cụ thể là bài Hoa mười giờ, thì không phải ai ai cũng hiểu như nhau, và thật vất vả khi phải phân tích, giảng giải rất dài mới tìm ra được nghĩa, thế thì còn đâu cảm xúc cái đẹp!? Ông ca ngợi “Cấu trúc gián đoạn.” của bài thơ là mới, để đối lập với “cấu trúc liên tục” là cũ: Hoa em đền hoa má/ Thơm má hoa mười giờ/ Mưa rửa đền hoa tuổi trắng lau quên…

Các nhà thơ trẻ cần giữ vững bản lĩnh khi tìm đến cái mới, cái lạ. Không phải cái mới cái lạ nào cũng đi đến tận cùng sáng tạo.

Nửa thế kỷ XX mặt biển triết học phương Tây tràn ngập những cơn giông bão, luận thuyết chủ nghĩa, khuynh hướng thì chúng ta chưa tìm ra được những “hạt nhân hợp lý” cho đời sống văn hoá dân tộc. Ví dụ: Xu hướng đề cao vai trò cá nhân được coi là một giá trị văn hoá cao nhất, con người là một nhân vị.  Vấn đề trọng tâm đặt ra là thân phận con người trong xã hội, là việc xoá bỏ mọi tha  hoá trong hoạt động con người: Tha hoá quyền lực, tha hoá lao động. Xu hướng này ở phương Tây có bề dày lịch sử của nó mà một trong những biểu hiện là kêu gọi giải phóng con người. Vấn đề giải phóng con người trong toàn cầu hoá nên kêu gọi giải phóng cả thân thể và tình dục (Body and sexuality). Trước đây trong nhiều thập kỷ chúng ta mới nghiên cứu con người xã hội (quan điểm, học vấn, thành phần giai cấp). Bây giờ để khám phá con người bí ẩn cần tính đến con người tâm lý, con người tâm linh, con người sinh học. Nhiều cuộc hội thảo khoa học quốc tế vào nhiều thập kỷ gần đây đã cởi mở đề cập đến những “bề chìm” của con người: Nhu cầu, tình cảm, tình dục, nhân tính, cá tính, vô thức, tiềm thức, siêu thực. Trong nghệ thuật siêu thực là gì? Chẳng qua là sự nối dài hiện thực mặt phẳng, đòi hỏi không gian ba chiều, lập thể. (Hội hoạ Picatxô là một ví dụ). Hiện nay, trong văn chương nói chung và trong thơ nói riêng một số nhà thơ, nhà văn tìm đến đề tài tình dục không có gì là lạ. Vấn đề là một cách nói như thế nào để dễ đi vào lòng bạn đọc. Đó là chưa nói đến truyền thống miêu tả cơ thể phụ nữ, nhu cầu tình dục, sự hoan lạc giữa nam và nữ vốn là một đề tài có nhiều thành công trong nhiều loại hình nghệ thuật ở nước ta. Những môtíp giao hoan nam- nữ trên mặt trống đồng, trên điêu khắc đình làng, vẻ đẹp của Kiều trong thơ Nguyễn Du, thơ trào lộng của Hồ Xuân Hương, thơ mới của Xuân Diệu, Bích Khê, Hàn Mặc Tử…, tất cả họ dùng thi pháp khác nhau, nhưng đều gặp nhau ở một điểm, đó là tính văn hoá, tính nhân văn sự tôn thờ và ngưỡng mộ cái đẹp, cái cao thượng của con người, ở đây là người phụ nữ.

Mọi thứ bắt chước những cái kỳ quặc, thô kệch và lố bịch của những dòng thơ suy đồi bên ngoài, mọi thứ suy nghĩ bệnh hoạn, ngôn từ rối rắm và xoàng xĩnh, cách diễn đạt thô thiển gượng gạo, vờ vĩnh về đề tài tình dục, tình yêu nam nữ đều xa lạ đối với thơ hiện đại và tất nhiên sẽ bị người đọc từ chối.

       H.S.V

 

Hồ Sĩ Vịnh
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 155 tháng 08/2007

Mới nhất

Chiều không tắt nắng

27/03/2024 lúc 16:33

Truyện ngắn của THỦY VI

Hội VHNT tỉnh trao tặng sách và tác phẩm ảnh triển lãm “Trường Sa - Quảng Trị: Sắc màu biên cương”

23/03/2024 lúc 16:22

TCCVO - Chiều 22/3, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị tổ chức trao tặng sách và tác phẩm ảnh triển lãm

Khu kinh tế thương mại xuyên biên giới chung Lao Bảo - Densavan: Từ ý tưởng đến hiện thực

18/03/2024 lúc 00:07

TCCVO - Chiều 15/3, tại thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, UBND tỉnh Quảng Trị và Ủy ban chính quyền tỉnh Savannakhet (Lào) phối hợp tổ chức Hội thảo “Khu kinh tế thương mại xuyên biên giới chung Lao Bảo - Densavan: Từ ý tưởng đến hiện thực”.

Liên hoan dân vũ chủ đề: "Nữ công Công đoàn viên chức tỉnh Quảng Trị tự tin, tỏa sáng"

16/03/2024 lúc 06:02

Chào mừng kỷ niệm 114 năm ngày Quốc tế phụ nữ (08/3/1910 - 08/3/2024), 1984 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng; Hướng đến kỷ niệm những sự kiện lớn của quê hương đất nước; kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929-28/7-2024), Sáng ngày 07/3/2024, Công đoàn viên chức tỉnh tổ chức Liên hoan dân vũ trong nữ Công chức, viên chức, người lao động (CCVCLĐ) năm 2024 với chủ đề “Nữ công Công đoàn viên chức tỉnh Quảng Trị tự tin, tỏa sáng”.

Phát huy vai trò “báo chí kiến tạo, báo chí giải pháp”

15/03/2024 lúc 07:05

TCCVO - Sáng ngày 13/3/2024, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ trì phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo tỉnh tổ chức hội nghị giao ban công tác báo chí tháng 1 và 2 năm 2024 và định hướng một số nhiệm vụ trọng tâm tuyên truyền trong thời gian tới. Đồng chí Hồ Đại Nam, UVBTVTU, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ trì hội nghị.

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

29/03

25° - 27°

Mưa

30/03

24° - 26°

Mưa

31/03

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground