C |
âu đối không biết có tự bao giờ. Ngày xưa để tuyển dụng khoa bảng người ta lấy câu đối để thi tài ứng khẩu và trí thông minh của các nho sĩ… Trong kho tàng văn hóa Việt Nam, câu đối là thể loại văn học mà nó cũng là một thú chơi thanh nhã, thú vị trong dịp Tết Nguyên Đán của người Việt. Nếu thiếu câu đối trong ngày Xuân thì thiếu đi một hương vị gì đó của ngày Tết, không có nó Tết cũng kém vui. Kể cả trẻ nhỏ, như tôi ngày bé, cả năm tiết kiệm tiền để Tết đi chợ mua một vài câu đối về treo trong nhà, thực ra thì cũng chẳng hiểu nhiều về ngữ, nghĩa, thể thức.
Ngày nay, thú chơi thanh nhã đó cũng có phần phai nhạt. Khơi dậy truyền thống, bản sắc dân tộc là làm sống lại phong tục đẹp có từ ngàn xưa của ông cha ta, thể hiện sự minh mẫn, tỉnh táo và đóng góp thêm cho kho tàng văn học nước nhà đậm đà bản sắc dân tộc. Ngày xuân, nói chuyện vài nét về câu đối tôi xin đưa ra một số nguyên tắc và hình thức cơ bản để các bạn tham khảo:
1 – Về hình thức:
Câu đối có nhiều loại. Câu dưới năm chữ trở xuống gọi là câu tiểu đối
Ví dụ:
Trồng môn trước cửa
Bắt ốc sau nhà.
Hay:
Ngựa kim ăn cỏ chỉ
Chó vá cắn thợ may.
Câu năm đến bảy chữ gọi là đối thơ, câu này có thể làm theo thể thơ ngũ ngôn, thất ngôn hoặc thơ đường luật.
Ví dụ:
Dậu rào mắt cáo mèo chui lọt
Rổ nứt lòng tâm tép nhảy qua.
Hay:
Học trò Phú Khê ăn cơm cháy
Thầy giáo Tây Ninh nhậu bò nhừ
Câu có tám chữ trở lên gọi là đối phú. Chữ cuối mỗi câu, mỗi ý, đoạn phải thanh bằng đối thanh trắc và ngược lại.
Ví dụ:
Nhâm Thìn hết, tiễng rồng bay, tài đức có thừa sao xếp xó
Quí Tỵ về, mừng rắn cuốn, trí tâm không thiếu ắt thành công.
Hay:
Dòng đời đẩy đưa, cuộn xoáy giật rung, lời thơ chẳng bao giờ bợt bạt.
Cuộc sống sinh sôi, phong ba giông bão, áng văn luôn sẽ mãi ngời ngời
2 – Về nguyên tắc: Câu đối luôn luôn có 2 vế là vế ra và vế đối. Số lượng chữ trong hai vế phải bằng nhau. Nếu chữ cuối câu vế ra là thanh bằng thì chữ cuối của vế đối phải là thanh trắc và ngược lại.
Ví dụ:
Vế ra: Đường mới, nhà mới, vợ mới không vào nhà mới.
Vế đối: Trường xưa, lớp xưa, bạn xưa chẳng học lớp xưa.
Vế ra: Thầy giáo tháo giầy đi dép lốp
Vế đối: Nhà trường nhường trà uống nước trong
Trường hợp từng chữ vế đối về thanh đối với từng chữ vế ra càng tốt. Đòi hỏi có ý tưởng sâu sắc, dùng từ lắt léo, càng khó thì càng tốt.
Ví dụ:
Thầy Tu khát, tu ừng ực
Chú Tiểu mê, tiểu tè tè.
Đối ý: Hai ý đối phải cân nhau mà đặt thành hai câu song song
Đối chữ: Phải xét hai phương diện thanh và loại. Thanh bằng đối với trắc và ngược lại. Loại là thực từ như: trời, đất, cây, cối, cỏ, hoa, lá…
Ví dụ:
Rắn hổ đất leo cây thục địa
Ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên.
Loại hư từ như: thì, mà, vậy, nên, là, cũng, với….
Ví dụ:
Học trò là học trò con hay chạy lon ton là con học trò
Tiến sĩ cũng tiến sĩ ngài thích ngồi lai nhai cũng ngài tiến sĩ
Do vậy thực từ đối với thực từ; hư từ đối với hư từ, động từ đối với động từ, danh từ đối với danh từ, Hán đối với Hán, Nôm đối với Nôm…
Ví dụ:
Thủ thỉ chén đầu lợn
Túc tắc xơi chân gà.
Hay
Hươu là lộc hươu đi cộc lộc
Cá với ngư cá lội ngắc ngư.
Đình Lập lập đình mới
Lạng Sơn sơn nhà cao.
Con cua càng càng to càng bé
Chú cầy vòi vòi ngắn vòi dài
Tết Nhâm Thìn, về Thăng Long ngắm tượng rồng, vui Tết.
Xuân Quý Tỵ, rót ngũ Xà, uống rượu rắn, mừng Xuân.
Trên đây là vài ý kiến cá nhân để tạo bầu không khí đón xuân Quí Tỵ thêm phần phấn chấn, vui tươi. Sự khởi sắc của một năm là mùa xuân, mùa xuân đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái. Chúc năm mới đến, sum vầy và hạnh phúc.
N.K.Â