Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 30/03/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Tản mạn thi ca

1.

Tôi luôn luôn tin rằng các nhà thơ đích thực là những người rất lương thiện. Bởi ngọn bút của họ (bây giờ có thể là bàn phím) hướng về tinh thương yêu và sự cao đẹp của con người. Từ xưa đến nay, những thi hào, thi bá, thi nhân được quần chúng kính trọng yêu mến khi họ có những tác phẩm mang nỗi buồn vui và khát vọng của dân trăm họ. Không ai công bằng như nhân dân; những con người khổ đau và lam lũ ấy định giá chính xác minh chủ và thi nhân của họ. Chính họ, không ai khác, từ bờ tre góc ruộng, từ bãi chợ hẻm phố, những kẻ nông, kẻ chợ, kẻ sĩ…đã thầm lặng bầu chọn ra anh hùng và nhà thơ cho dân tộc mình. Và, những gì bách tính thiên hạ tự nguyện bầu chọn ra, tự nguyện ghi tâm khắc cốt mới lâu bền, mới trở thành giá trị muôn thuở của đất nước.

Xuyên suốt muôn đời vẫn là lòng yêu nước thương dân; cái mẫu số vĩnh hằng ấy là tiêu chí số một để định vị giá trị của người cầm quân và người cầm bút. Tài năng nào, tài năng đến mấy cũng phải gắn với chữ Tâm mới mong tỏa sáng lưu truyền. Cốt lõi chữ Tâm phải chăng là lòng Thiện, diễn giải giản dị như thơ của bình dân là Thương người như thể thương thân…Lòng Thiện ấy, như Nguyễn Trãi từng viết Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, như Nguyễn Du từng khóc Trải qua một cuộc bể dâu / Những điều trông thấy mà đau đớn lòng, như Hồ Xuân Hương từng cảm Có phải duyên nhau thì thắm lại / Đừng xanh như lá bạc như vôi…Đọc thơ của ông cha, của một số nhà thơ lớp trước tôi thấy họ đau đớn và thương yêu thật lắm, sâu lắm và tuyệt nhiên chẳng tù mù cầu kỳ rắm rối chút nào. Thơ thốt ra từ cõi lòng mình, không mượn vay ai cả và nó cũng thật gần với nhân dân. Trăm họ biết Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…là những thi hào, thi bá sáng tỏa của đất nước, của nhân loại trước hết họ đọc được trong từng con chữ những đau đớn lòng của chính thân phận mình.

Càng đọc, tôi càng thấy sự giản dị cô đọng cần cho thơ biết bao. Hai câu thơ này của Hữu Thỉnh không mới lạ xuất sắc về ngôn từ nhưng tại sao lại ám ảnh tôi đến thế:

Một đời người mà chiến chinh nhiều quá

Em níu giường níu chiếu đợi anh

Câu thơ bình dị đến mức tưởng ai cũng có thể làm được mà chứa đựng quá nhiều ý nghĩa. Số phận của một dân tộc, một thế hệ, một gia đình, một con người trong một giai đoạn lịch sử có ở trong đó. Một đời người mà chiến chinh nhiều quá. Chiến tranh, cuộc này qua cuộc khác, hết đánh Pháp lại chống Mỹ. Chiến tranh, năm này qua năm khác, tháng này qua tháng khác, ngày này qua ngày khác. Đất nước bị xâm lăng, chúng ta không thể không cầm vũ khí để đánh giặc nhưng cái thử thách này quá lớn, cơn bão máu cuốn bao nhiêu người vào vòng xoáy tanh nồng của nó và gánh nặng chiến chinh trĩu xuống mỗi phận người bé mỏng. Chiến thắng vĩ đại đến bao nhiêu, lòng tự hào to lớn đến bao nhiêu cũng không thể khỏa lấp hết những mất mát thương đau của nhân dân; câu thơ như lời cảm thán với những xa xót thẳm sâu kín đáo. Đến bây giờ tôi rất ngạc nhiên khi có người quá dị ứng với những bài thơ, câu thơ viết về sự mất mát đau thương trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Cuộc chiến ấy là máu, đầm đìa máu chứ đâu phải là đánh trận giả. Hàng triệu chàng trai, cô gái tuổi còn rất trẻ ra trận không được trở về, hàng triệu gia đình chịu tang tóc đau thương, hàng triệu chia ly tao tác, không phải không có những người thân buộc phải ngắm nhau qua mũi súng…Dân tộc, đất nước bị dìm trong máu, mọi cuộc chiến suy cho cùng, tổn thất lớn nhất thuộc về Mẹ Việt Nam. Mẹ của những đứa con máu đỏ da vàng chết trận. Tuy nhiên chúng ta đã vượt qua cơn bão ấy, vượt qua với nghị lực trên 200% mà sự can trường và lòng chung thủy phi thường của những người phụ nữ Việt Nam đáng được kính trọng. Theo tôi, thì câu thơ thứ 2 đã đạt đỉnh hay khi nói về những người vợ, người yêu trong cuộc chiến tàn khốc dằng dặc vừa qua. Em níu giường níu chiếu đợi anh. Níu giường níu chiếu còn ghê hơn cả hóa đá Vọng phu ấy chứ. Thành đá thì không còn đau đớn khát khao thấp thỏm hy vọng nữa, còn đây những người vợ, người yêu ấy phải sống, muốn sống để đợi người thương yêu từ mặt trận trở về. Níu là chữ duy nhất dùng hay trong trường hợp này. Một điều nữa cần nói thêm: kiểu thơ như thế có bị coi là cũ không? Xét về mặt hình thức câu thì không mới. Mới ở đây, theo tôi là ở hình tượng ngôn ngữ mà điểm sáng của nó là cụm từ níu giường níu chiếu. Chưa ai viết được hay như thế về một hiện tượng phổ biến, quen thuộc: người vợ chờ chồng trong chiến tranh chống Mỹ. Mới ở trong thơ trước hết phải mới ở sự phát hiện vấn đề, sự vật của cuộc sống từ đó nâng lên thành ý tưởng, hình tượng, cấu tứ của thơ và tất thảy những cái đó được trình bày trong sự chọn lọc ngôn ngữ khắt khe, độc đáo mang dấu ấn của mình và trên mình.

Đọc thơ người mà ta thấy hổ thẹn khi đó đây mình còn dễ dãi, tùy tiện trong chọn chữ cho thơ…

2.

Lệ xin giọt cuối để dành

Trên phần mộ mẹ, nương hình bóng cha

Cây cau cũ, giại hiên nhà

Còn nghe gió thổi sông xa một lần

Con xin ngắn lại đường gần

Một lần…rồi mẹ hãy dần dần đi…

       Những câu thơ giản dị và xúc động ấy, Trúc Thông viết cho ai? Trước hết, như lời anh đề tựa ở bài thơ "Bờ sông vẫn gió": Chị em con kính dâng hương hồn mẹ. Địa chỉ anh gửi đến đầu tiên là mẹ, dẫu bây giờ người đã ở cõi hư vô. Anh viết cho mình, cho chị gái và cho tất cả những người thân của anh trong niềm thương nhớ vô biên người mẹ tảo tần đã khuất. Bên bờ sông hiu hiu gió, anh cầu xin mẹ thêm một lần trở lại; trở lại với hình dáng đường nét khuôn mặt vô cùng thân thuộc của người, đặng cho nỗi nhớ của các con vợi bớt đôi phần. Ai đã mồ côi mẹ và ai vẫn còn hạnh phúc có mẹ trên đời hẳn cũng đều rưng rưng khi đọc bài thơ này. Nỗi niềm riêng đã lan tỏa, truyền cảm thành nỗi niềm chung của nhiều người. Thơ, như ai từng xác nhận trong trường hợp này là tiếng nói của trái tim đã đến được với không ít trái tim khác.

        Một giọng thơ khác, trẻ hơn, chưa hẳn là hiện đại nhưng đã có điểm khác với truyền thống:

Bóng mẹ ngồi khâu đêm

sợi chỉ xe những đường gân xanh

lặng lẽ đổ khuôn bóng tối

bóng bà ngoại lưng còng ngõ nắng

tóc cước rưng rưng

quang gánh rẽ về thiên cổ.

          Những câu thơ nhiều hoài niệm ấy Trần Kim Hoa hẳn không muốn chỉ viết riêng cho mình bởi sau tình yêu thương ruột rà máu mủ dành cho mẹ và bà, nữ nhà thơ muốn tìm sự chia sẻ đồng cảm ở bao tâm hồn khác.

Đấy là ước muốn tự nhiên, là khao khát của không ít người làm thơ - một thể loại văn học trữ tình đã xuất hiện hàng nghìn năm nay. Những câu thơ, bài thơ vượt thời gian, nằm lòng nhân loại bao thế kỷ chính vì nó đã giải mã được chiều sâu tâm hồn con người bằng những diễn đạt tinh tế và khúc chiết nhất. Sự sáng tạo không thể không bắt đầu bằng sự phát hiện cuộc sống và nó được khai triển bằng những lối đi nghệ thuật riêng mang dấu ấn của cá thể nhưng không xa lạ với dân tộc và nhân loại. Nói gì thì nói đặc trưng của ngôn ngữ thơ vẫn là biểu đạt tình cảm. Thơ vẫn dành để thông qua hình tượng ngôn ngữ người cầm bút gửi gắm cái tình, cái chí của mình trong đó. Điều này cũng xưa cổ như thể loại văn học này vậy.Thơ hiện nay, lắm khi ta tưởng tác giả nghĩ nhiều hơn cảm, nhưng ngẫm kỹ thì cái nghĩ đó không thể không mang rung động của người sáng tác. Ngay đến một câu nói cũng bị trạng thái tình cảm chi phối huống hồ là thơ. Thơ vần, thơ không vần, thơ văn xuôi, thơ truyền thống hay thơ hiện đại cũng đều không vượt ra khỏi quy luật của cảm xúc, sự thăng hoa xuất thần của tâm hồn là cơ hội để người sáng tác tìm gặp được những ý thơ, tứ thơ, câu thơ, bài thơ hay. Sự thăng hoa có thể đến bất chợt khi nhà thơ chưa ngồi trước bàn phím hay cầm bút nhưng nó cũng có thể xuất hiện trong quá trình sáng tạo của họ. Đấy là ánh chớp của đam mê, là bùng nổ của mắt bão, là trào vọt của nham thạch, là tràn dâng của đỉnh lũ. Có nhà thơ tâm sự với tôi, khi anh viết xong trường ca thì người cứ rỗng cả ra, tất cả tinh lực đều dồn vào từng câu thơ, từng con chữ. Tôi nói, ông có thể chết vì thơ. Nhà thơ thở dài, không sợ bằng thơ bị chết yểu, thơ chết trước mình.

Người ta đang nói nhiều tới sự cách tân trong thơ. Cách tân! Muốn thơ có mặt trong cuộc sống đương đại và cả mai sau nữa, không còn con đường nào khác phải cách tân. Nhưng theo tôi, sự cách tân không phải là đổi trắng thay đen, đánh tráo khái niệm, tôn vinh thác loạn, đưa hủ bại lên ngôi. Sự cách tân không phải là đốt quá khứ trong nỗi ngông cuồng được trở thành sao chói lọi trên bầu trời thi ca. Cách tân xa lạ với tùy tiện, cẩu thả, rối mù, hủ nút, đánh đố người đọc. Cử nhân, thạc sỹ cho đến tiến sĩ văn học cũng chẳng cảm nhận nổi, không hiểu được tác giả nói gì trong bài thơ của họ. Chớ lầm tưởng rằng thơ hiện đại, thơ mới phải là thơ khó hiểu; thơ dễ hiểu thuộc về kiểu thơ cũ, thơ truyền thống. Thực ra khó hiểu hay dễ hiểu không phải là tiêu chí của thơ, mà thơ hay chính là sự lay động người đọc ở cảm xúc mạnh, ở tính đa nghĩa của hình tượng, ở sự hợp lý đắc địa của ngôn từ. Giá trị của thơ nằm ở việc phát hiện vấn đề, tìm và dựng tứ độc đáo, ở tính sáng tạo trong thiết lập cấu trúc bài, chọn lựa hình tượng khác lạ, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ nhuần nhuyễn đổi mới.

Thơ muôn đời mang tính kế thừa. Hệ quả của những dè bỉu, mỉa mai, chà đạp, đoạn tuyệt truyền thống là sự giả tạo, hống hớt, hởm hĩnh, lai căng, mất gốc và một kết cục đuối sức, hụt hơi, èo uột, tự chết là khó tránh khỏi. Trong những năm qua, có mấy người làm thơ cuồng chữ được vài ông bầu đưa lên sân khấu văn chương, qua kỹ nghệ soi chiếu của ánh sáng lăng xê và khuyếch đại của âm thanh tâng bốc bỗng chốc biến thành thiên tài dân tộc, người đảm nhận sứ mệnh cứu nền thi ca đất nước đang lụn bại(!). Kết quả ra sao, phần lớn tan nát trong thời gian rất ngắn. Những cái được tôn sùng vội vã bị chết yểu giữa thanh thiên bạch nhật. Thơ sẽ tự chết khi không bám được vào cuộc sống đời thường. Đó chính là bài học vỡ lòng cho những người làm thơ.

Giấc mơ vòng nguyệt quế không có tội gì nhưng xin đừng ngộ nhận về tài năng. Ngọn đuốc soi đường khác hoàn toàn với mồi lửa của kẻ đốt đền. Thơ, là sứ giả của tình yêu, trong cuộc chạy tiếp sức của nhân loại, nó bồi đắp tiếp tế năng lượng cho tâm hồn, không chỉ cho một người mà cho nhiều người. Vì thế, thơ cần sự sáng tạo lại ngoài tác giả, để được truyền cảm, nhân lên trong những cảm thông, bênh vực, nâng đỡ không ngừng. Thơ gắn với đời, trong những lấm láp ruộng đồng, trong mặn mòi biển cả, trong khuất lấp nẻo rừng, trong xô bồ phố thị với từng hớn hở hay đớn đau của cuộc sống, bắt đầu từ một đến mười, mười đến một trăm rồi nghìn, vạn, triệu.

Thơ hay là thơ lan truyền theo cấp số nhân và nó sẽ trở thành tài sản chung của nhiều người. Tại sao những bài thơ hay lại được nhiều người biết, nhiều người nhớ, nhiều người thuộc. Bí quyết của nó là gì? Phải chăng, soi vào đó người ta nhận ra gương mặt tâm hồn của mình. Lặng lẽ , chậm rãi đọc lại những bài thơ hay của người khác ta thấy nó chính là ta đang thanh lọc tâm hồn. Người làm thơ vì danh, tôi nghĩ ít thôi, làm thơ để thanh lọc tâm hồn mới là phổ biến. Đọc thơ, yêu thơ cũng để biết sống trầm tĩnh sâu sắc hơn. Thơ không phải là bài giáo huấn luân lý một cách thô thiển nhưng thơ mang vẻ đẹp thuần khiết của tình cảm và cả nhân cách con người do vậy không lý gì nó không góp phần chống lại sự băng hoại xuống cấp của đạo đức phẩm chất con người.

Chính vì thế, nên dù phải chống đỡ với sự chiếm lấn của bao nhiêu phương tiện nghe nhìn khác của thời kỹ trị và đang ở trong một tâm thế ít thuận lợi, thơ vẫn không chết như ai đó đã kêu lên. Thơ hay vẫn lặng lẽ đi vào lòng người như những mạch ngầm dịu mát làm lành lại bao vết thương đời, trong khổ đau mất mát lắm khi người ta vẫn còn phải vịn vào câu thơ để đứng dậy. Nhiều cuộc tranh luận sóng gió về thơ, đó là gì nếu không phải niềm yêu và lòng mong mỏi cho thơ hay lên. Ngày thơ Việt Nam đã trở thành một lễ hội văn hóa sang trọng có sự tham gia đông đảo của công chúng ở mọi miền đất nước.

Thơ còn cần cho cuộc sống biết bao. Với công chúng, người cầm bút đừng bao giờ làm cho thơ xa lạ hay thấp hèn đi. Muôn đời, thơ vẫn là nhịp cầu nối tâm hồn này đến tâm hồn khác. Sứ mệnh của thơ là thế, chẳng bao giờ đổi thay. 

3.

Thơ, đương nhiên là sản phẩm của nhà thơ. Nói một cách hình ảnh thì thơ chính là đứa con tinh thần của thi sĩ. Cũng giống như một người mẹ, nhà thơ nào chẳng mong muốn cho đứa con mình sinh ra lành lặn, khỏe khoắn, xinh đẹp. Cũng tựa hồ tình mẫu tử lai láng, nhà thơ yêu quý đứa – con - tác phẩm hơn cả yêu quý mình. Thơ, có gì khác cơ chứ, nó là con vàng con bạc của nhà thơ. Người - mẹ - thi – sĩ sẵn sàng chết để đứa – con – thơ sống lâu bền với thời gian. Đó không phải là ngoa ngôn, tôi tin thế.

Bởi lẽ, sự sống của một người là hữu hạn còn sự sống của thơ có thể đạt đến vô hạn. Có những bài thơ nghìn tuổi vẫn đang sống trong lòng nhân loại. Thơ sống cũng có nghĩa là người sinh ra nó, nhà thơ, đang sống. Một cuộc sống sang trọng ý nghĩa gấp nhiều lần cuộc sống trần tục, bụi bặm. Nguyễn Du đang sống ở thời đại chúng ta đẹp hơn rất nhiều lần Nguyễn Du của thế kỷ 18. Nguyễn Du đương đại làTruyện Kiều, một tác phẩm thơ bất hủ của dân tộc Việt Nam. Nguyễn Du của thế kỷ 18 có thể mắc phải những thói hư tật xấu như đam mê tửu sắc (!) nhưng công dân Việt Nam thế kỷ 20, 21 và nhiều thế kỷ sau này nữa không ai lấy đó làm vì để hạ bệ thi hào Tố Như. Vượt qua 300 năm, Nguyễn Du sẽ sống đến nghìn năm, rồi vạn năm hoặc lâu hơn nữa bởi cái Hay của Truyện Kiều.

Hai mươi tám tuổi, Hàn Mặc Tử đã chết vì bệnh phong nhưng thơ ông không yểu mệnh. Người đương thời như chúng ta còn đắm say ông lắm, không ít người đang phải loay hoay tìm cái bí ẩn của lá trúc che ngang mặt chữ điền, còn bâng lâng nhung nhớ tới bao cô thôn nữ theo chồng bỏ cuộc chơi trong bóng xuân sang…Hàn thi nhân nào đã chết, cái bệnh phong kia sao ăn mòn hủy hoại được hồn thơ siêu phạm lay động đến cả trăng sao của ông. Còn lâu Hàn Mặc Tử mới chịu nằm yên trong mộ, ghềnh Ráng ấy chỉ là một địa chỉ cư trú của ông, đêm nay người đang đợi trăng về nơi Vĩ Dạ, chiều mai đã ra Nhật Lệ đi dọc bờ sông trắng nắng chang chang…

Nhà thơ chỉ được lưu danh trong tác phẩm của mình. Suy cho cùng, công chúng tôn vinh thơ chứ nào tôn vinh nhà thơ. Và, mọi cái thật công bằng, sòng phẳng qua sự sàng lọc thật nghiệt ngã của thời gian. Một tập thơ hay, một bài thơ hay đến một câu thơ hay, thiên hạ đều ghi nhận. Ghi nhận một cách nghiêm túc, không cánh hẩu, không vụ lợi, không vì phong bì lót tay, không phụ thuộc mối quan hệ anh anh chú chú, không sợ bị mủi lòng trước đáy thắt lưng ong…

 Xếp hạng nhà thơ bằng thơ, đó là điều duy nhất đúng. Khốn nỗi, lắm khi xét tặng giải thưởng hay hội viên người ta lại đặt thơ sau mối quan hệ xã giao. Bi kịch của người làm thơ là ở chỗ này nhưng với thơ thì chẳng hề hấn gì, vì nó tồn tại bằng giá trị đích thực của tác phẩm. Chưa ai trao giải thưởng văn học cho Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… cả nhưng thơ của họ vẫn tỏa sáng nhiều thế hệ và có mặt ở muôn nơi. Với tôi:

Thơ hay, như lửa, nó mang sứ mệnh cháy trong lòng.

Thơ hay, như nước, nó có phận sự chảy từ ít đến nhiều.

Thơ hay, như hạt, nó có trách nhiệm ấp ủ và nảy nở.

Thơ hay, như mắt, nó biết mở ra những tâm hồn.

Thơ hay, như mùa, nó biết tôn trọng những luân khúc để còn lưu giữ bản sắc của quá khứ. 

Thơ hay, như người tình, thấu tỏ nhau từng chân tơ kẻ tóc, cho nhau cả dịu êm và rên xiết, mưa bụi và cuồng phong.

Thơ hay, như thơ, biết chiếm lĩnh phần hồn của thiên hạ bằng sự cao cả của tâm hồn và minh triết của trí tuệ.

Thơ hay, không gì khác, là sự gặp gỡ thiên định của thăng hoa cảm xúc với lóe sáng của trí tuệ.

 Không bao giờ nhiều. Nhiều nhà thơ nhưng không nhiều thơ hay. Đó cũng là thiên định. Nên chăng, hát như quan họ bằng lòng vậy cầm lòng vậy, trời cho bao nhiêu nhặt bấy nhiêu, đừng lập kế hoạch, đừng đặt chỉ tiêu, đừng chỉ đạo thơ.

Thơ là vi mô, là sự nhạy cảm tinh vi nhất của con người, chỉ có Thượng đế mới lãnh đạo được thơ.

Nhà thơ, có vẻ như mọi sự hay được đẩy lên thái quá. Vui quá. Buồn quá. Sướng quá. Khổ quá. Yêu quá. Ghét quá. Hạnh phúc quá. Đau khổ quá. Tuyệt vời quá. Thậm tệ quá…Hàng trăm cái quáthường gắn với nhà thơ như thể Trời bắt phải thế.

Nhà thơ không làm được chính trị chuyên nghiệp, tôi nghĩ thế. Nếu có làm thì trước sau cũng không thành công trọn vẹn. Chính trị là thủ đoạn ( nên hiểu nghĩa tích cực của câu này), nhưng nhà thơ thì phần lớn là bộc trực, khảng khái, độ tiết chế kìm nén thấp. Nhà thơ cần tránh xa vòng xoáy quyền lực bởi nó sẽ làm tổn hại tới sự tinh khiết hồn nhiên trung thực của thơ, đó là chưa nói tới tai bay vạ gió như bi kịch Nguyễn Trãi tiên sinh ở thế kỷ 15. Trần Đăng Khoa, nghe đâu đã từng được giới thiệu bầu ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng. Thật may cho Khoa và cũng may cho Đảng khi dự định ấy bất thành. Bởi lẽ, theo tôi, Khoa sẽ làm thơ hay hơn viết nghị quyết, hạt gạo rất nổi tiếng này nói chuyện thơ quyến rũ gấp vạn lần đi giảng nghị quyết Đảng.

Tôi chưa thấy nhà thơ nào ở nước ta làm chính trị chuyên nghiệp mà thuận buồm xuôi gió cả. Cái chất thi sĩ không hợp với những hoạch định, tính toán, mưu mô, lo toan ở tầm chiến lược, vĩ mô. Ngay ở cấp thấp hơn thì nhà thơ vẫn thường bộc lộ sự run rẩy, đa cảm, chông chênh, chòng chành, rất dễ vỡ. Thôi, cứ để cho thi sỹ làm thơ, chỉ cần mở ra cho họ một không gian thoáng đãng, thế là đủ.

Hạnh phúc của thi sỹ là làm được thơ hay, có nhiều công chúng thừa nhận đón đợi tác phẩm của mình. Và, theo tôi nhà thơ có được hạnh phúc này cũng thật hiếm hoi. Thi sĩ có tài thời nào cũng ít. Mấy nghìn năm đằng đẵng dân tộc mới có được Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương. Nhân loại cũng vậy thôi, những tên tuổi chói ngời cũng không nhiều lắm. Thế thì, những nhà thơ đương đại chúng ta cũng đừng nên quá ảo tưởng về mình, có được một bài thơ, một câu thơ để đôi ba người nào đó nhớ đã là quý giá lắm. Đừng mong tên tuổi lưu danh hậu thế, đừng dại dột xưng danh rầm rĩ làm chi. Rất nhiều chúng ta đang lóp ngóp bơi trong dòng sông thơ mênh mông. Càng bơi càng thấy bến bờ tít tắp mù xa. Nhìn ra xung quanh, không ít người như ta cũng đang quẫy đạp um sùm. Hét hò ầm ĩ, nước bắn tung tóe, nhưng chẳng đi xa được bao lăm. Buồn và nản lắm chứ, bơi tiếp thì mệt mỏi mà dừng lại thì chìm.

Tự nhủ lòng cứ viết cho thật, truyền thống hay hiện đại, thực hay ảo đều phải thật. Rút ruột xé lòng mà viết may ra câu thơ đỡ nhạt, khỏi bị bắn bật ra khỏi cuộc sống. Đừng vì nhân danh cách tân đổi mới mà làm mọi thứ nhá nhem, rối tung lên. Cũng đừng dựa dẫm vào truyền thống mà cũ kỹ, sáo mòn mãi. Tôi chọn đổi mới trên nền truyền thống. Sông Lấp của Tú Xương đấy, Sông kia rày đã nên đồng / Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai / Vẳng nghe tiếng ếch bên tai / Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò, có cầu kỳ đâu mà vẫn văng vẳng cho tới bây giờ. Và đây, hiện đại huyền ảo Đoàn Phú Tứ Màu thời gian không xanh / Màu thời gian tím ngắt / Hương thời gian không nồng / Hương thời gian thanh thanh vẫn còn lung linh trong ta. Sức lay động của thơ phụ thuộc vào độ cảm xúc (làm nên giọng, điệu, tiết tấu, âm vực...) và sự tạo dựng hình tượng (nhân vật, chi tiết, hình ảnh, màu sắc, đường nét…) mới mẻ bằng ngôn ngữ mẹ đẻ nhuần nhuyễn, sáng tạo của người cầm bút.

Mỗi bài thơ là một sáng tạo. Nói thật ngắn gọn là như vậy. Nhưng sáng tạo ra sao, để không lặp lại mình, không giống người khác là vô cùng khó khăn. Khó khăn như hành trình của người thám hiểm mỏ quý vậy. Có lúc được nhiều nhưng lắm khi lại trắng tay. Bởi thế, tôi nghĩ danh hiệu nhà thơ không quan trọng bằng bài thơ. Có bài thơ hay, đương nhiên anh xứng đáng là thi sỹ chẳng cần tấm thẻ hội viên Hội Nhà văn chứng nhận. 

4.

Tôi nghĩ, đã là nhà thơ chân chính thì không thể không trung thực. Dù rằng sự trung thực lắm khi mang lại cho thi nhân những hệ lụy rủi ro, những tai họa không lường trước được. Nguyễn Trãi đó, tài năng kiệt xuất bao nhiêu thì cũng bi thương tổn thất bấy nhiêu. Người dâng Bình Ngô sách, quân sư tài ba của Lê Lợi, được coi là nhà chiến lược, chiến thuật, ngoại giao xuất sắc và là linh hồn của cuộc kháng chiến chống giặc Minh, tác giả của áng hùng văn – bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước nhà –Bình Ngô đại cáo, của những Quân trung từ mệnh tậpQuốc âm thi tập, Ức Trai thi tậpnổi tiếng muôn đời cuối cùng bị chết cùng với ba họ (tru di tam tộc) dưới lưỡi kiếm vương quyền thời Lê Thái Tôn. Ông chết, suy cho cùng đâu phải chỉ vì oan án Lệ Chi Viên mà bởi lòng căm tức ghen ghét của thói xu nịnh gian tham nơi chốn quan trường thời đó. Một con người thấu hiểu Non cao non thấp mây thuộc; / Cây cứng cây mềm gió hay /…Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết / Bui một lòng người cực hiểm thaynhưng vẫn không thoát khỏi sự trả thù của mưu mô đen tối. Một hiền tài có tấm lòng trung liễn hiếu, mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen, yêu thiên nhiên tới độ lấy tiếng nước chảy rì rầm của khe suối làm đàn cầm, lấy đá rêu làm chiếu thảm phải chuốc lấy sự oan nghiệt thảm thê.

Đời nào cũng vậy, sự thẳng thắn trung thực luôn bị thói xu nịnh dối trá căm tức trả thù. Nguyễn Trãi đâu không thấu tỏ cái thâm hiểm của loại người ấy nhưng khí khái của một thanh quan, phẩm chất của một thi nhân không cho phép ông viết và hành động khác với tâm can vằng vặc của mình. Bởi vậy, dẫu đã hơn bảy trăm năm rồi, trải qua bao thăng trầm biến động nhà thơ Ức Trai Nguyễn Trãi vẫn sống cùng ta trong những vần thơ bất tử dào dạt tình yêu thiên nhiên Núi láng giềng, chim bậu bạn; / Mây khách khứa, nguyệt anh tam, sự chọn lựa thanh tao không ham hố: Công danh đã được chỉn về nhàn./ Lành dữ âu chi thế ngợi khen. / Ao cạn vớt bèo cấy muống. / Trì thành phát cỏ ương sen…, tình người thảo thơm rộng mở: Nghìn hàng cam quýt con đòi cũ / Mấy đứa ngư tiều bậu bạn thân…, lòng thương dân canh cánh: Tuy đà chưa có tài lương đống, / Bóng cả như còn rợp đến dân…Thơ Nguyễn Trãi vẫn còn mê hoặc ta trong những bí ẩn huyền diệu của thi ca chưa thể giải mã hết:

Tự bén hơi xuân tốt lại thêm.

Đầy buồng lạ, mùi thâu đêm.

Tình thư một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gượng mở xem

                                (Cây chuối)

          Ẩn dụ hay là siêu ẩn dụ đây? Thơ ở đẳng cấp cao không lộ ra, không nói hết mọi điều. Nếu nói về miêu tả thì chắc không nhiều người tả cây chuối đẹp và lạ như thế. Bàn tới sự đa nghĩa thì chắc Cây chuối không thua kém thi phẩm nào. Trong tôi, hiện lên một Ức Trai đa cảm, đa tình lắm. Tự bén hơi xuân tốt lại thêm. Mối liên hệ giữa Mùa (xuân) – Cây (chuối) là mối liên hệ của tình yêu; đối chiếu vào con người ta thấy mạch yêu ấy không ngừng tuôn chảy. Cây bén hơi xuân, người bén hơi người, cả hai đều tươi tốt thêm. Đầy buồng lạ, mùi thâu đêm. Tình yêu đã đến độ kết trái, tỏa hương nhưng hình như vẫn còn có điều gì đó nữa nên mới Tình thư một bức phong còn kín. Những nỗi niềm, những ẩn khúc, những mong ước chưa giải bày thổ lộ? Những xao xác tơ non còn rưng rưng giấu kín trong lòng? Gió nơi đâu gượng mở xem.Theo tôi, đây là một mời gọi khám phá rất tinh tế và cũng rất hiện đại có từ thế kỷ 15.

       Khi nghĩ về Ông, tôi đã xúc động viết bài thơ Nguyễn Trãi. Bài này có 2 câu tôi rất tâm đắc là: Lưỡi gươm chém Người Hiền treo giữa chốn vàng son / Câu thơ của Người Hiền cất trong lòng thiên hạ. Toàn bộ bài thơ như sau:           

NGUYỄN TRÃI

Nước loạn

Ông là quân sư lừng danh

soạn Binh thư bình giặc

sách lược nào cũng lấy nghĩa nhân làm gốc.

Nước yên

Ông lui về tùng trúc

bầu bạn cùng núi trăng

nước chảy / đàn cầm

đá rêu / chiếu thảm

tưởng được thong thả sớm hôm

nào ngờ

                Lệ Chi Viên bạc nghiệt.

Lệ Chi Viên! Lệ Chi Viên! Máu ngập…

sáu trăm năm, oan khuất chưa tan

nỗi gì

còn đây, một Côn Sơn thông xanh ngằn ngặt?

Vọng giữa lòng ta lời cây, lời núi:

lưỡi gươm vương quyền có thể phạt đầu ba họ

nhưng làm sao tru di được

một Đại cáo bình Ngô

một Quân trung từ mệnh

một Quốc âm thi tập…

 

Lưỡi gươm chém Người Hiền treo giữa chốn vàng son

Câu thơ của Người Hiền cất trong lòng thiên hạ

Nghìn năm sau và nghìn năm sau nữa

dưới bóng tùng, bóng trúc

bên đá, bên hoa

vẫn

vằng vặc Ức Trai - Nguyễn Trãi!

Điều tệ hại nhất với người cầm bút nói chung và nhà thơ nói riêng là đánh mất lòng trung thực. Không trung thực với đời, với xã hội, với mình, với nghệ thuật sẽ khó có những tác phẩm tâm huyết. Những bài thơ viết ra chỉ là những xác chữ vô hồn. Chẳng gì tệ hại hơn khi thơ bị chê là vô hồn ( hiểu cụ thể hơn là thơ không có tình). Khóc sướt mướt chưa chắc đã thương đau thật sự. Những bài thơ hay chính là sự kết hợp của phút thăng hoa tâm hồn với khoảnh khắc lóe sáng của trí tuệ. Người có nghề không mấy khi làm thơ kém nhưng chưa chắc đã viết được thơ hay. Nguồn gốc thơ, khởi thủy thơ, hành trình thơ, kết thúc thơ, trước thơ, trong thơ và sau thơ đều là cảm xúc. Cảm xúc chân thật và mãnh liệt dắt dẫn người làm thơ vào những cung bậc thi ca huyền diệu không ngờ tới. Cảm xúc ấy không chịu dừng lại khi tác giả đã dừng bút hay thôi gõ bàn phím vi tính mà nó tiếp tục cuộc thâm nhập, chinh phục bạn đọc, từ người này qua người khác, từ đời này qua đời khác. Sau trận động đất kinh hoàng và bi thương ở Tứ Xuyên hàng vạn bài thơ viết về sự kiện này đã ra đời tại Trung Quốc nhưng tác giả của bài thơ hay nhất, xúc động nhất lại là người làm thơ nghiệp dư. Người máy, sau khi lập trình sản xuất ra thơ nhưng tôi tin rằng các tác phẩm của rô bốt có thể rất lạ nhưng không bao giờ hay. Bởi vì cho đến nay người ta chưa lập trình được cảm xúc cho rô bốt. Và, giả dụ, người ta có thể lập trình được xúc cảm cho người máy thì đó cũng là thứ cảm xúc vay mượn, bắt chước mà thôi. Người máy, chỉ lắp ghép được từ ngữ, câu theo những vần điệu định sẵn chứ không thể, không bao giờ làm thơ hay được, đến bây giờ tôi vẫn nghĩ thế.

Việt Phương, là một dẫn dụ về lòng trung thực của người làm thơ. Ngợi ca hay phản biện cũng đều xuất phát từ lòng trung thực. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, ở một đất nước có sự kiểm duyệt văn học nghệ thuật rất chặt chẽ như Việt Nam ta mà có mộtCửa mở của Việt Phương thì cũng ghê gớm thật. Ông đâu phải là người thường. Sinh năm 1928 tại Hà Nội, đã từng tham gia cách mạng từ tháng 4 năm 1944 trong Đoàn Thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu, từng giữ chức Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 3 Miền Đông Nam Bộ (1946), từ năm 1947 đến năm 2000 là thư ký của vị Thủ tướng nổi tiếng Phạm Văn Đồng…thế mà Việt Phương đã có những câu thơ làm rung động cả trời xanh. Thơ Việt Phương là thơ hai chiều, phản ánh đúng nhận thức thực tiễn của đời sống xã hội nước ta và thế giới thời ấy. Trong những tháng năm chống giặc Mỹ xâm lược, thơ ông mênh mông tình yêu và niềm tự hào đất nước chính nghĩa, anh hùng: Chỉ một áng mây chiều trên mặt sông Hồng bảng lảng / Một giọt nắng vàng trong vòm hoa phượng Hồ Tây / Một mùi dạ hương thoang thoảng heo may / Một khoang trời Việt Nam không mây, xanh biếc / Đủ để hiến cả đời ta chẳng tiếc / Trận đánh này là sự nghiệp tình yêu.(Ta đánh Mỹ, vậy thì ta tồn tại). Quá đúng! Ta yêu Tổ quốc này, ta yêu độc lập tự do, yêu hòa bình, yêu cuộc sống của quê hương, dòng họ, gia đình và bản thân nên mới: Ta sẽ đánh đến cùng / Con sẽ đánh bên cha. Cháu lớn nhanh để lên đường đánh nữa…(Ta đánh Mỹ, vậy thì ta tồn tại). Nhưng ở phía khác của trái tim, thì nhà thơ lại nhức nhối nỗi đớn đau: sự chết chóc mất mát tang thương của con người. Dù ở bên này hay bên kia, ta hay kẻ thù thì những cái chết vì chiến tranh đều xót xa cả: Bác không bằng lòng gọi trận đánh chết nhiều người là “đánh đẹp” / Con xóa chữ “đẹp” đi như xóa sự cạn hẹp trong lòng con / Thêm hiểu lòng người đối với quân thù như sắt thép / mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn (Muôn vàn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương). Con người mới là vốn quý nhất của hành tinh này; không con người thì dù trái đất, thiên nhiên có đẹp đến mấy cũng vô nghĩa: Đất được màu hoa, ta mùa đời / Mỗi lòng thơm tỏa một hương vui / Như người ươm hạt yêu quả chín / Đi suốt đường hoa, chỉ ngắm người. (Chợ hoa ngày Tết). Con người nồng nàn yêu đất nước, yêu nhân dân, yêu Đảng, yêu Bác Hồ ấy đã rất trung thực và dũng cảm chỉ ra mặt trái của tấm huân chương, cái ngây thơ ấu trĩ của một thời: Chưa biết rằng “trời” còn xanh hơn “trời xanh” / Ta thiếu sự trầm lắng đúc nên bởi nhiệt tình / Ta cứ nghĩ đồng chí rồi thì không ai xấu nữa / Trong hàng ngũ ta chỉ có chỗ của yêu thương / Đã chọn đường đi, chẳng dừng ở giữa / Mạc Tư Khoa còn hơn cả thiên đường / Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ / Hình như đấy là niềm tin, ý chí và tự hào / Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ / Sự thơ ngây đẹp tuyệt với và ngờ nghệch làm sao / Một phần tư thế kỷ qua đi và bây giờ ta đã biết / Thế nào là thương yêu thế nào là chém giết / Ta đã thấy những chỗ lõm chỗ lồi trên mặt trăng sao / Những vết bùn trên tận đỉnh chín tầng cao (Cuộc đời yêu như vợ của ta ơi). Những câu thơ như thế còn nguyên giá trị cho đến tận hôm nay và những lõm lồi, vết bùn nơi chốn cao xa không thể không giật mình trước nó. Không phải bài thơ nào của ông cũng khá cả. Có những tác phẩm chất báo chí chính trị át chất thi ca nhưng phải nói rằng Việt Phương là một trong những người mở cửa thơ nước nhà trong thời chuyên chính vô sản rất sớm. Cần ghi công cho những nhà thơ tài hoa - trung thực như ông.

 

 
Nguyễn Hữu Quý
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 186 tháng 03/2010

Mới nhất

Bộ từ điển bỏ lại giữa rừng sâu

10 Giờ trước

Sau hiệp định Pari, 27/1/1973, chiến tranh tạm dừng, đại đội tôi đóng quân giữa bãi cát Lệ Xuyên, huyện

Đi tìm cỏ

10 Giờ trước

Nhiều lúc ngồi thẫn thờ nhìn đàn trâu bò gặm cỏ dọc triền đê chợt giật mình: Cỏ quê

Chị ấy…

10 Giờ trước

Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế tổ chức một chuyến đi thực tế dài ngày tại Tổng Công

Pa Ling mùa mưa

10 Giờ trước

Tháng 11, dưới cơn mưa rừng tầm tã, chúng tôi tìm về thôn Pa Ling, xã A Vao, huyện Đakrông,

Chiều không tắt nắng

27/03/2024 lúc 16:33

Truyện ngắn của THỦY VI

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

31/03

25° - 27°

Mưa

01/04

24° - 26°

Mưa

02/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground