T |
hời hiện đại, theo quy luật tăng tốc của cuộc sống, thơ lại làm một cuộc hành trình đầy phiêu lưu, bất ngờ bằng cái nhìn dự cảm kỳ diệu. Cái tôi của từng nhà thơ không còn đóng khung trong một khuynh hướng số đông chính là do sự đa diện và vi diệu của cuộc sống xã hội và sự nhạy-cảm-thi-sĩ của từng chủ thể sáng tạo quy định.
Ý thức kiếm tìm thế giới nghệ thuật riêng lại có dịp đánh thức trái-tim-dại-ngộ nhưng giàu-đam-mê của từng nhà thơ đã đem lại cho thi đàn những gương mặt vô cùng khả ái. Lúc ấy, dù nhà thơ có muốn níu giữ mình, họ cũng đã sẵn sàng bỏ rơi mình để thực sự dấn thân vào những vương quốc mới lạ của cõi tâm linh, huyền ảo. Đó là vương quốc của hiện thực được thăng hoa qua sự dẫn dắt và mộng mị thi ca. Phải chăng trong sự tỉnh táo hầu như phải va chạm hằng ngày của kiếp đời đã làm cho mỗi cá thể tự giàu có hơn lên trong ý nghĩa tích cực và nhân bản của từ này, thì đối với thi nhân, hình như chỉ sự tỉnh táo ấy thôi chưa đủ, mà phải tìm đến những phạm trù, những topiques khác của tâm-thần-hệ (psychisme) chính mình mới mong tìm ra những hệ quả hiện thực nhưng đầy bí ẩn tươi non của cuộc sống và sự thầm kín run rẩy của tâm hồn?
Thi sĩ có nhu cầu sống trong mơ, bởi vì những khoảnh khắc kỳ diệu ấy đã đánh thức ở họ những “bừng ngộ” của cả những gì đã sống qua những vùi sâu vào quên lãng hoặc cả những gì còn mơ hồ, nhưng dần dần hiện lên sau bập bùng ngọn lửa của trực giác mách bảo, nó chứa cả ước mơ và dự phóng mà có khi trước đó, họ chưa bao giờ nghĩ ra. Quả thực, khi ấy giấc mơ có giá trị hơn sự tỉnh tảo thản nhiên, vì nó đã bày ra cả những gì gọi là khát vọng, nghiệm lý và có những gì gọi là vô vọng và nhạt nhẽo của hiện sinh con người. Và cũng khi ấy, những vấn đề giữa thực và mộng đều có thể được lý giải đến tận cùng, hầu như tuyệt đối mà không phải mọi người đều kịp nhận ra ngay lập tức.
Điều này, có lẽ chủ nghĩa siêu thực trong thơ ca phương Tây đã có lý nhưng do cách tổ chức ngôn ngữ một cách quái đản (chữ dùng của giáo sư Phan Ngọc) đến nỗi người đọc tưởng như phi lý, phi hiện thực.
Ở Việt
Lâm Thị Mỹ Dạ - nhà thơ nữ hiếm hoi thời hiện đại tự nguyện đi vào thế giới rung rinh, huyền ảo ấy và vững tin mình không lạc khỏi chính mình. Tập thơ Đề tặng một giấc mơ (1) của chị đã khẳng định một thi pháp riêng. Thi pháp ấy lấy chính bản thân mình làm đối tượng và dám vực dậy từ những giấc mơ tro vùi, những “Dư âm mặn như nước mắt”, “Những chiếc lá phát sáng màu huyền thoại” và nỗi buồn "Chết như từng giọt sương - Rơi không thành tiếng” để “Mơ thành giấc mơ”, để nhìn ra tha nhân và nhìn lại những ngọt ngào, hy vọng sau khi đã soi thấy tận sâu thẳm tâm hồn mình “Như bầu trời thấy mình qua dòng sông”. Ở đó tác giả tự thanh lọc và rút ra quy luật “Sức mạnh phù du chỉ là thoáng chốc”, bởi vì muôn đời “vầng trăng xanh biếc” và “ Trái tim dịu dàng - Dịu dàng đến tận cùng trong suốt” vẫn đang đồng hành cùng tình yêu và cõi nhớ.
Đề tặng một giấc mơ - Bài thơ đầu tập lấy làm tên cho tập thơ là lối vào thế giới những hình ảnh và tâm trạng kỳ thú. Mở đầu bài thơ, qua hình tượng “Con chim mang giấc mơ bay đi - Chủ bé ngủ dưới trời sao sáng”. Một thế giới đầy hương hoa, thanh thản đến thanh bạch, chỉ có trời xanh cao rộng và mặt đất đầy cỏ dịu êm đang che chở cho giấc mơ ngọt ngào. Chú bé mơ thành chim, rồi chú chim lại mang giấc mơ bay đi với bao khát khao trên đôi cánh mộng “con chim trong mơ như nàng tiên cá”. Đó là khát vọng bình yên, hạnh phúc. Giấc mơ tiếp tục thăng hoa, có những hạt ngọc tỏa sáng từ trái tim biến thành giọng hót rực rỡ để “suốt đời - cất giữ - tặng riêng - cho Người”. Chú bé trôi trong cảm giác kỳ diệu, bồng bềnh của cõi vô thức, mộng du.
Bay qua, bay qua nghìn đêm.
Bay qua, bay qua ngàn sao
Những chiếc lá phát sáng màu huyền thoại
Những bông hoa mang hình bàn tay, ngón tay
Ru ru ru ru
Ru êm
Đến đây, bài thơ gây một biến ảo bất ngờ. Hóa ra, chú bé không phải là chủ thể phát ra giấc mơ mà chính là sản phẩm của giấc mơ do một chủ thể khác phát ra. Các hình ảnh, sự kiện diễn biến đứt nối, chập chùng làm thỏa mãn những ước mơ vô thức của con Người. Nó có cội nguồn ở những gì từng trải, sống qua (véccu) và dự cảm (prévu) của Người đang mơ. Cho nên bất ngờ ở chỗ “Chú bé là ai - Con chim là ai - Con chim là tôi - Giấc mơ là ai - Giấc mơ là tôi”. Đó là sự gặp gỡ của khát vọng Người mà trong thế giới của tiềm thức, vô thức nó mới được khôi phục một cách êm ái, dịu dàng, bừng ngộ. Khổ cuối bài thơ và toát lên tính triết lý, làm người đọc sững sờ, bất giác hiểu ra sự kỳ diệu bội phần (multipe) của cõi mộng một cách vô tư và trong sáng.
Đêm qua
Tôi mơ thành tôi
Tôi mơ thành chim
Tôi mơ thành giấc mơ
Đây là một trong những bài thơ hay, cấu trúc theo khuynh hướng hiện đại của Lâm Thị Mỹ Dạ. Từ thế giới của giấc mơ (rêve) ấy, tác giả nhìn ra cuộc đời và thiên nhiên đầy đam mê và tiếc nuối. Trước hết đó là sự tiếc nuối, ám ảnh về thời gian. Thời gian trôi chảy bỏ lại bên sau những sân ga cuộc đời và tuổi trẻ mộng mơ. “Rồi cỏ sẽ xanh trên tên tuổi chúng ta - Dòng sông sương mù trôi mãi”. Tác giả nhận ra rất rõ cảm giác của chính mình “Đời người rồi qua mau”, “Đời người thoáng chốc tan vào gió”, “Hạnh phúc mong manh hương ổi bay” và con người đang vươn lên để chiến thắng thời gian, để không bị mất hút trong sự tàn bạo của từng giọt thời gian “Thời gian uống tôi - Trời ơi - Thời gian uống tôi” là nỗi sợ hãi có nguyên cớ, có khi do chính mình vô ý gây nên dù “Năm tháng tươi xanh - Đời đến lúc cỗi già - Ta mãi thơ ngây - Thơ ngây nào được nữa!”, bởi vì:
Em đã thành Người đàn bà khác
Bông hoa xanh nụ tầm xuân đã khác
Trách chi em, trách chi đời đen bạc
Khi chính mình lắm lúc tự vùi chôn
Điều quan trọng là con người phải biết mộng mơ, cả những lúc ta không còn có mặt trên đời. Chỉ cách đó, con người mới không sợ cái tuổi già sinh học của mình. Bằng cách níu giữ thời gian, con người tự soi vào mình để hiểu những gì cần phải có trong cuộc chạy đua với thời gian.
Gặp mình, tìm mình, tự vấn, tự thú, tự thoại về mình là tiếng nói khẩn thiết trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - như cách thế, nhà thơ mới hiểu hết con người và chính mình. Đó là ý thức tận cùng của cái tôi tự biểu hiện, cái tôi tự soi tỏ.
Một mình lắng, một mình nghe
Ơ kìa cái cõi - đi - về gang tay!
Một mình cho đến hết đêm nay
Ta ngồi với bóng ôm đầy nhân gian.
Cả trong hạnh phúc, sẻ chia, hình như trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ bao giờ cũng có sự gián cách nhưng không phải để trách hờn mà là cách để tự triết lý về nỗi cô đơn và sự kiêu hãnh bình yên như trăng non và lá xanh.
Em chẳng là cây mận của ai
Em là cây mận của em
Bám rễ vào đất đai thẳm sâu là nỗi buồn
Và trời xanh là lòng kêu hãnh
Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giàu ý tứ. Tứ thơ bào giờ cũng lạ, bất ngờ. Hình như không tạo được tứ lạ thì bài thơ vẫn còn trong dự tưởng, đặc biệt là những bài: Làm gì có biển, Mưa, Người mù cầm đèn, Một mình, Tôi thấy mình… Trong bài Với biển, tứ thơ rất lạ. Tác giả một mình chạm ly với biển rồi tự nghĩ đó là hành động lãng mạn ngông cuồng, rồi dựng lên chân dung biển để đối thoại, và cuối cùng chấp nhận sự cô độc cao sang trước biển đời giông bão.
Thôi cần chi, ta ném vào đáy thẳm
Chén đời ta
Xoáy lòng biển một vết thương!
Nếu biển đau, mong chi người chia sẻ
Vết thương kia xin trả lại ta nào
Sóng trắng xóa vỗ vào bờ nhè nhẹ
- Ta mặn lắm rồi người chẳng hiểu ta sao?
Hướng về tha nhân hay hướng ngoại là thi pháp thơ một thời để nói những vấn đề hệ trọng của dân tộc, thời đại. Đó là điều cần thiết và cao cả, qua đó, thơ thực sự tồn tại có ích giữa cộng đồng. Giờ đây, thơ có nhu cầu quay lại chính mình để từ mình nhìn ra nhân thế. Trong con người, hiện lên những vui buồn, ân nghĩa nhưng phải là những con người có một cuộc đời âm vang, và quan trọng hơn là sự chân thật đến tận cùng với chính họ. Lâm Thị Mỹ Dạ đã làm cuộc hành trình này trong thơ đầy trăn trở và bên sau những câu thơ là dự cảm lớn về khát vọng vĩnh hằng. Nỗi buồn, nỗi đam luyến và sự cô đơn trong thơ chị là có thật, đồng thời là một lựa chọn nghệ thuật, là quan niệm mỹ học. Tặng nỗi buồn riêng, Nhiều khi, Làm gì có biển… là những triết lý về sự cô đơn và nỗi buồn biếc trong như ngọc và nước mắt. Ở đó, cái chết là một biểu trưng “Em chết trong nỗi buồn - Chết như từng giọt sương - Rơi không thành tiếng”.
Bởi vì sự im lìm trong xứ sở của nỗi buồn, người thơ phát hiện ra sự lạnh lùng đến hoang mạc “Trong xứ sở - Em bị lạc - Xứ sở hiếm hoi niềm vui - Khô khắt đến nao lòng” nhưng rồi vẫn chưa hiểu hết vì sao? Trái tim trắng trong, trẻ dại và nụ cười thật tươi với lời thề dâng hiến ở nơi nào? “Đến như anh người bạn cùng đường - Vẫn bước ngoài đời em - Em lạc cả trong anh - Lạc không tìm ra lối”. Rồi người thơ tự vấn: “Em không còn là em - Ai đánh mất em? - Hay chính em đánh mất?”
Dù sao đó vẫn là câu hỏi đã được trả lời, bởi vì nỗi buồn đã đi hết hành trình đau khổ của nó để được gặp lại trong sự hoài nghi cô độc.
Em chết trong nỗi buồn
Chết lặng thầm âm ỉ đớn đau
Trời cho em nụ cười thật tươi
Ai biết sau nụ cười
Giọt nước mắt về đâu?
Nhưng rồi, nhà thơ vấn không ngừng mơ mộng: “Ước gì - Anh là dòng sông - Cho em soi thấy mình như trời cao rộng - Để tận cùng anh em gặp chính mình”. Đó là nỗi buồn của cánh đồng trái tim đã bao mùa bón chăm, gieo vãi, những niềm vui không đi cùng năm tháng để rồi nhà thơ tự “Giật mình - Hoang vắng - Bởi tôi đã gieo tôi cằn kiệt không ngờ”. Nhưng đâu đó bên sau những câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn vang lên nối khát vọng bởi cuộc đời bao giờ cũng bao dung và độ lượng: “Hãy ngước nhìn trời cao sẽ thấy - Xuân còn đầy run rẩy, nôn nao”.
“Sự quên lãng chính mình”, “Xóa đi chính mình” là một cách để biết mình hiện hữu, biết mình đang ngơ ngác trước mọi bắt đầu non tơ như lá, bỡ ngỡ như trời xanh, mỗi sớm, có lúc nổ tung “Như bất ngờ núi lửa - Đột ngột sao băng - Rực rỡ chói lên mạnh mẽ” dù cuối cùng: “Rồi tất cả lại trở về im lặng - Nỗi im lặng của trăng non và lá xanh”, nhưng ở đó, người thơ kịp nhận ra sự sống không bao giờ xưa cũ.
Ta thành trái mà hồn còn như lá
Cứ xanh hoài chồi biếc thuở non tơ
Vậy là, một khắc khoải trong hy vọng và một ý thức trong hiện sinh hiện lên ám ảnh, khiến nhà thơ không thể tự hững hờ, buông xuôi, khi mình vẫn còn có mặt trong đời. Khi biết “Đời người thoáng chốc tan vào gió”, tác giả càng ý thức “Có phút trên đời thành vô giá” và tự nguyện: “Trái tim đừng lúc nào tĩnh vật - mà thiết tha đời như ngọn cây”
Thật ra, sự đơn độc hay nỗi buồn đều có giá trị về mặt triết mỹ. Bên sau sự đơn độc là sự mong ước có đôi, đi hết nỗi buồn, niềm vui sẽ bừng lên trên gương mặt. Đó là khát vọng nhân bản hiếm hoi và mong manh: “Xin cho một khắc - Được hóa làm quỳnh - Nở cùng đơn độc - Để đời có đôi”.
Đó là cái tôi trang trải, đón đợi, chan hòa và thầm kín của cõi mộng du; là bản giao hưởng giấc mộng tình thanh khiết đã qua bao nhiêu đêm trắng, bao nhiêu chiều “khát chờ xoáy lốc tim em” cùng người tình hư ảo để thấy “những đám mây ra biển” và chấp nhận “Niềm vui mắc cạn - Nỗi sầu biển khơi”. Và càng hiểu thêm một sự thật bẽ bàng.
Thôi đành vậy, đành thành sa mạc
Cúi chào anh
Cơn mưa cuối chân trời
Vịnh Hạ Long như người tình hư ảo
Một người yêu không có thật trong đời
Thế mà, bên sau nỗi cô đơn vẫn là ước khát một chân trời
Ước gì cầm được cô đơn
Ném thia lia để hóa buồn thành vui
Không trách khỏi nỗi tiếc nuối, dày vò trước những vết thương do vô ý gây nên để một chiều bất giác nhận ra “Bây giờ ta như vỏ ốc - trống rỗng hết bao điều quên nhớ”. Và trước những gặp gỡ bất ngờ, từ sâu thẳm tâm hồn, có một nhu cầu được “Đập vỡ mình để đầy ắp”. Đó phải chăng là sự đam mê để chiến thắng những hệ lụy và phiền muộn cõi người trước “Những nụ hôn có cánh” và “Nỗi buồn biếc xanh” sau khi tự mình xóa đi “Từng vết - từng mảng” như mưa “Cho đến khi - Chỉ còn - Một giọt - Ngơ ngác - Trên lá xanh”. Đó là kết quả của trạng thái đa phân của những giai điệu nước mắt và nụ cười đã qua bao tự thú, dày vò: “Còn ai hiểu bằng ta - Còn ai yêu ta bằng ta - Còn ai ghét ta bằng ta - Còn ai thương ta bằng ta”.
Sao không là đất
Thấm đẫm bao mồ hôi nước mắt
Sao không là trời
Giông bão cuồng say rồi tắt
Sao ta là con Người?
Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là tiếng nói đồng cảm đầy khẩn khiết của bao nhiêu số phận, trong đó hướng về chung quanh trong sự khai thác cạn kiệt chính mình là cái nhìn nhân ái, là thi pháp tự suy đã qua chiêm nghiệm và thay đổi ngôn từ thi ca (changer la langye posetique). Thơ chị kết hợp được chất thực cuộc sống và ngôn ngữ đa dạng, tạo ra những dồn ép, biến ảo, chồng chéo về hình ảnh, đối tượng như huyền thoại, cổ tích nhưng không hề có dấu vết của sự làm dáng. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hồn nhiên, tuân thủ cảm xúc và trái - tim - thi - sĩ - nhạy - cảm mà thành, Tặng nỗi buồn riêng, Đề tặng một giấc mơ, Giấc ngủ mặt trời… Là những bài thơ như thế. Tôi chọn một bài để chứng minh cảm nhận của mình.
“Giấc ngủ mặt trời” là tình sử lung linh của một tâm hồn mê đắm tưởng mong manh mà vững chải như những tình sử Hy Lạp. Những giả định “Ừ có thể anh là mặt trời trong đất”. “Hay ngược lại anh là núi lửa”, “Rồi anh lại dịu hiền làm chú ngựa” đều là điều có thể của chàng trai đa cảm, khi lần đầu gặp gỡ đã thẩn thờ “Đứng một mình dưới mảnh trăng non” và lại “Cháy không nguôi, cháy không biết mình còn”, “Cháy đêm đêm dữ dội âm thầm…”
Bài thơ lại diễn ra như cổ tích, một không gian - thời gian quyến rũ đến nao lòng!
Vầng trăng xanh với con ngựa trắng
Đêm bình yên ngựa gặm cỏ trên đồi
Chợt rưng đỏ một mặt trời cháy rát
Tỏa nồng nàn thầm lặng không nguôi
Mặt trời cháy rát đã “Xoáy một vùng dữ dội” làm cho mọi gần gũi mong manh còn sót cũng không thể kêu hãnh thờ ơ và bình yên được nữa! Những bí ẩn nồng say đã đánh thức giấc ngủ mặt trời, đánh thức tất cả, dù trạng thái lưỡng phân là điều có thật, nhưng không có gì để đảm bảo chàng trai đứng bên cái vạch cách ngăn đã căng quá mỏng của sự nồng nàn, khao khát hiến dâng.
Bản lĩnh anh là cái vạch cách đôi
Giữa xoáy lốc mặt trời và bình yên đêm trắng
Sự hiền dịu là anh, sự dữ dội cũng là anh
Chú ngựa màu trắng và mặt trời trong đất
Bài thơ dẫn dắt người đọc phiêu diêu qua một vùng mơ mộng không tưởng bởi trạng thái kỳ lạ của “Chú ngựa” vừa hiền dịu vừa bất kham, làm cho mọi cao vời cũng như đang nghiêng ngả trước ái tình.
Chú ngựa nhớ mặt trời không ngủ được
Ngửi trong đất đai tìm hơi ấm vương còn
Chú ngựa nhớ làm trời đêm xúc động
Giữa cao vời dâng tặng mảnh trăng non
Vậy mà sự ngang tàng của vó ngựa không trùng không thể níu kéo sự lặng im lá cỏ xanh non. Và mặt trời trong đất - đối tượng kiếm tìm của chú ngựa trắng cũng không thể bao dung hơn nữa dù ngày ngày mặt trời vẫn chói chang rực rỡ, ngựa chẳng biết sao!? Kết thúc bài thơ vẫn là khoảng cách kiêu hãnh, có hấp lực như nam châm.
Ngựa ơi ngựa, mặt trời nằm trong đất
Đang ngủ yên giấc ngủ của người say
Đừng đánh thức sự đam mê cuồng nhiệt
Mặt trời kia chỉ dâng tặng ban ngày.
Bài thơ biến ảo, lạ, diễn tả cái diệu kỳ mong manh và vững chãi của những lối vào tình sử trái ngang như những kho báu của ước ao đang lùi xa, xa mãi trong những cánh rừng huyền thoại nhưng không thể tin rằng nó vẫn hiện hữu trong những giấc mơ thăm thẳm cõi tình.
***
Với Đề tặng một giấc mơ, Lâm Thị Mỹ Dạ đã làm giàu có và phong phú thêm giọng thơ đầy nữ tính và nhân bản vốn có của mình từ Trái tim sinh nở đến Những bài thơ không năm tháng và Hái tuổi em đầy tay, nhưng giờ đây tính triết lý, nghiệm sinh được tăng cường và sự khẩn thiết nhìn lại mình để thấy bước đi của thời gian và nỗi buồn không thể khác của con người và chính mình. Từ đó, hướng khát vọng của thi ca vào những chân trời mơ mộng. Sức hấp dẫn và giá trị của Lâm Thị Mỹ Dạ nằm trong đường biên giới của cái tôi và cái ta, giấc mơ và hiện thực, sự tự chôn vùi và sự tự nổ tung, giữa những gì đã qua và những gì sẽ đến; bên cạnh cái hư ảo mong manh ta sắp bắt gặp cái biếc xanh, bỡ ngỡ. Và vì vậy, đó là tiếng nói của sự va chạm, sinh thành. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không rời xa thi pháp truyền thống nhưng luôn phá và thay để làm giàu có cái phần hiện tại cần thiết của thơ. Thơ chị cứ tự nhiên tưởng thốt ra là thành, không cần sửa chữa nhiều lắm nhưng đó là cái tự nhiên của tâm hồn đã chín, của những tứ thơ lặng câm, lãng quên được đánh thức sau “Giấc ngủ mặt trời”, là lúc cái - tôi - nghệ - sĩ được lên ngôi cùng với những giấc mơ phát sáng màu huyền thoại.
H.T.H
(1) Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, NXB Thanh niên, H, 1998 - Giải nhất Ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội VHNT Việt