(*) Tiếp theo kỳ trước
... Ngày thứ, chúng tôi vượt núi đi về phía Đông, đến điểm cao nhất của Bạch Mã xưa tên là Đồi Vọng Hải, nhìn thẳng ra biển. Đây là một cứ điểm quân sự cũ, mặt đất trơ trụi những mảng nền bê tông phủ kín dưới những bụi cây đuôi chồn, cùng những lớp địa y dày, và trong sương mù, ửng lên một màu tím huyền rất lạ. Dương đứng khoanh tay trên một mõm đá cao dáng nghiêm rất sư phụ đối diện với các địa hình của võ sinh Nghĩa Dũng Đường đang thao diễn qụyền cước đai đen của Không Thủ Đạo. Môn đệ của Dương đủ người tứ xứ: cán bộ giảng dạy đại học, sĩ quan tác chiến, thợ câu, có cô gái là sinh viên tổng hợp Hà Nội, cô khác là giáo viên huyện miền núi ở Gia Lai... họ theo sư phụ lên Bạch Mã để ôn luyện võ thuật, nhưng chủ yếu là để tu dưỡng tâm pháp được truyền dạy, rằng “Học võ thuật là để không bao giờ sử dụng bạo lực”. Hóa ra là thế, những giá trị tâm kinh bao giờ cũng được hun đúc trên những ngọn núi cao.
Theo chỉ dẫn của Dương, tôi vạch lau đi sang ngọn đồi bên cạnh, nơi đó có di tích ngôi biệt thự cũ của ông Ngô Đình Cẩn. Trên đổ nát tôi còn nhận ra hình dạng của ngôi nhà, có tầng gác, sân nội thất dành đặt chậu cảnh, cái giếng đào dùng để tưới hoa và một bao lơn rộng nhìn xuống phía Cầu Hai, với cửa biển Tư Hiền lấp lánh duới chân núi Túy Vân. Trên nền nhà vỡ nát, những đám nhạn lai hồng mọc lan theo những kè nứt, cằn cỗi nên hoa lẫn lá đều thu nhỏ lại và bạc màu. Bên ngoài, lác đác giữa những đám dương xỉ, tôi ngạc nhiên thấy những bụi lay ơn vẫn sống dai dẳng, hoa màu gạch bạc thếch, và những cây nho đã hoang dại len lỏi giữa lau sậy. Đây hiển nhiên là di tích của hoa viên xưa. Hẳn là hoa viên đẹp nhất của một thời Bạch Mã, giống như những khu vườn nổi tiếng khác của ông Cẩn ở Huế.
Trời sầm mây, gió từ biển vào, lượn rồng rắn trên đầu rừng lau, làm dậy lên tiếng rì rào rất rộng quanh tôi. Ở giữa nhà một bể xây còn nguyên vẹn sát bức tường vỡ nhìn thấy núi non bên ngoài. Không có gì trên bệ, nhưng tôi biết đấy là một bàn thờ Chúa nhờ những dấu thánh khắc sâu ở mặt tiền. Tôi ngồi bệt tựa lưng vào chiếc bệ thánh nhỏ, tự nhiên thấy đỡ đi một chút cái cảm giác hư vô vẫn dằng dặc trong tôi suốt những ngày lang thang với Bạch Mã. Gió lùa mây lên ngàn, vùn vụt băng qua căn nhà đổ, dồn quanh những bức tường, tôi cảm thấy mình đang bị vây hãm giữa chuyển động vân cẩu của mây trắng. Thật lạ, ngọn núi này hẳn là có thích thú gì riêng mỗi khi chứng kiến cuộc hội ngộ của hai gã phù phiếm trên đời, là tôi và mây. Mây, ồ mây của ba mươi năm, mi lại về tìm ta.
Năm đó kết thúc những tháng xuống đường sôi động ở Huế, tôi lên Bạch Mã để tìm kiếm chút yên tĩnh và tôi rất thèm khát, với ý định đánh cắp thời cuộc một chút nhân sầu để chiêm nghiệm những khám phá siêu hình học về cái chết. Mặc dù các em gái xinh đẹp luôn luôn che miệng cười, tôi vẫn đoán chắc rằng con người sẽ sống đỡ ngu xuẩn hơn, chừng nào hắn còn dành chút ít thời giờ để tò mò về cái chết, cái chết của chính hắn.
Vào Nouvel An thời tiết rất đẹp. Tôi được giới thiệu tìm đến cư ngụ trong một ngôi nhà vắng chủ của Bạch Mã. Ngôi nhà vẫn nguyên vẹn nhưng không có người coi sóc, còn lại vài thứ đồ gỗ sơ sài, vài ô cửa để ngõ vì cánh cửa đã bị hỏng. Vườn đầy hoa, và một loài cây gì tôi không biết, cánh rất dài và sum suê ngã rạp xuống thành một cái giàn che kín mặt đất. Tôi luồn tay xuống bên dưới thử mò xem, đụng phải rất nhiều trái, bèn hái lên xem, thì ra là những trái hồng to và đỏ như những trái cà chua chín. Những ngày ở Bạch Mã, tôi như một con sóc hoang dã, tha hồ ăn trái cây trong vườn hồng vô chủ.
Những ngày này Bạch Mã rất nhiều mây. Điều này làm trở ngại công việc của tôi. Mây đặc quánh, lừng lững vào đầy phòng, vờn vẽ trên những trang buồn bã của Clément Rosset làm cho tôi mờ mắt, chóng mặt vớ phải “Cửu âm chơn kinh” tôi xếp sách, đi ra ngoài, ừ thì cứ lang thang trong rừng, mây nhiều thế này biết đâu chẳng gặp tiên...
Và tôi đã gặp nàng.
Nàng mặc áo lụa trắng, quàng áo len tím, ngồi mơ mộng giữa đám hoa rừng. Dưới ánh nắng rẽ quạt vàng mật ong xuyên qua tán thông, trông nàng đẹp như tiên nữ. Một mình giữa hoa tiên nữ nhiều khi cũng buồn, nên vừa gặp tôi, niềm vui tòa sáng trên gương mặt nàng:
- Không ngờ lại gặp anh ở đây.
Tự nhiên tôi đâm ra lúng túng. Bèn chấp tay vái nàng:
- Ủa... sao cô nương lại biết đến kẻ hèn mọn này?
- Nhà ngươi là một gã mơ mộng khét tiếng giang hồ. Sao ta lại không biết?
Nàng cũng nghiêm mặt nhại giọng Kim Dung, rồi cười phá lên.
Hóa ra “Lục cô nương” của những năm trước. Tôi đã từng lẽo đẽo sau nàng qua một mùa mưa Huế, để chỉ nhìn đôi gót chân đỏ hồng của nàng ẩn hiện theo nhịp bước trên đôi guốc đakao, dáng nhẹ nhõm trong chiếc áo mưa màu lục tươi, trẻ trung như màu lá mùa tựu trường. Chưa bao giờ tôi có dịp nhìn đầy đủ khuôn mặt nàng, cứ hẹn lại một ngày đẹp trời... mùa mưa sau, có lúc sực nhớ, tôi trở lại đường cũ ngừa nàng nhưng không thấy bóng dáng đâu nữa. “Hay là Lục cô nương đã thay màu áo khác?” Tôi ngẩn ngơ tự hỏi, giờ mới biết, sau đó nàng đã theo gia đình dọn vào Sài Gòn. Tôi nhận ra nàng qua một vài chi tiết trong lời “tự bạch” loáng thoáng của nàng, còn mọi diễn biến trong ký ức của tôi lúc này thì nàng không hề hay biết, chỉ mãi ríu rít về chuyện cây cối.
- Loài lan này ở đây nhiều ghê. Nó sống nhiều nhất ở Ấn Độ, nhưng bên ấy hoa nhiều hơn, có thể tám hoa trên một cây. Vì hình dáng đặc biệt của nó, người Pháp gọi là bambou orchide, lan tre.
Nàng chỉ đám hoa rừng mọc đầy chung quanh. Những cây lan chỉ thiên màu tím và trắng, thật ra hình dáng giống cây mía hơn là cây tre. Nàng hồn nhiên theo đuổi sự say mê riêng của mình:
- Lan Bạch Mã quả là mê hồn. Phong lan nhiều loại quý, còn thổ lan tràn trề thiên địa, phải nói là cả một lục địa dồn về nơi núi này. Em nghe nói Bạch Mã cũng có Paph- iopedilum de lanatii, định lên đây tìm, lan hài đỏ này quý lắm, sản vật riêng của rừng Việt Nam, thế giới không nơi nào có, nhiều loài khác cũng là lan quý, ở đây mọc tràn với cỏ như là phapiopedilum kllosum, hoặc là phajus flavus...
Tôi nhăn nhó:
- Tôi rất sợ gọi tên hoa bằng tiếng La tinh!
- Xin lỗi em quen miệng: Hài đỏ này, Hài vệ nữ này, và Hài đính vàng nữa này. À Bạch Mã có một thứ lan không phải loài hiếm nhưng hình dáng rất dễ thương, gọi là Cò Môi Đỏ. Anh đã thấy lan này bao giờ chưa?
- Có, có một lần...
Tôi gật đầu và chỉ vào đôi môi hạnh đào của nàng. Nàng cười lảnh lót vang rừng. Như tiếng chim vành khuyên.
Nàng cùng gia đình từ Sài Gòn về nghỉ Noel ở một biệt thự màu trắng. Tôi còn nhớ, nên ven bìa công viên Đá reo. Chúng tôi ngồi chơi dưới khóm cây bạch dương ngoài vườn cỏ xanh mượt, nơi có nhiều nắng ấm. Câu chuyện của chúng tôi sáng hôm ấy, trong sương mù:
- Triết học của anh buồn quá! hay là cùng với em nghiên cứu về hoa đi cho vui nghe anh?
- Tôi có nghiên cứu vê một loài hoa duy nhất, là hoa phù dung (nàng vỗ tay reo mừng)
- Vậy là em được đồng nghiệp của anh rồi. Anh cho phép em sẽ giới thiệu nhé. Theo em biết thì đề tài chuyên biệt này chưa có ai dùng tới cả, (tôi vẫn giữ vẻ mặt nghiêm chỉnh).
- Chắc chắn là mới lạ và cả chính em cũng đừng nên ngạc nhiên.
(Nàng hơi nhứng mày và sau đó chăm chú nghe... đôi mắt nàng lúc này mở to, đen huyền và sâu thẳm như đôi giếng)
- Khi Adam và Eva bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng để đi về phía Đông, vật lạ đầu tiên họ gặp là một bóng hoa màu trắng. Trắng tinh khôi, hơn tất cả màu trắng trên địa đàng, có lẽ chỉ những linh hồn chưa hề phạm tội mà các thiên thần thường nói mới sánh được màu trắng của đóa hoa này. Adam liền hái một đóa cài lên băng che ngực bằng lá nho của Eva, lúc này nàng bắt đầu biết bối rối vì xấu hổ trước mặt Sa Tăng. Đến trưa ngồi nghỉ duới bóng những cây cọ sa mạc, Adam vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy bóng hoa đã đổi sang màu hồng. Chàng xúc động nói: "Địa đàng không có loài hoa nào hồng thắm như thế này, ngoài gương mặt của nàng. Ta sẽ giữ gìn vật lạ này mãi mãi cho riêng nàng”. Đến chiều lại ngồi nghỉ, Adam chợt thét lên một tiếng kinh hoàng, bông hoa tuyệt vời của chàng đã rũ xuống, tím bầm như một vết thương trên ngực Eva. Sa Tăng nói bằng giọng trầm tĩnh của một người thông tuệ hết mọi điều:
- Nơi các ngươi đang đến định cư gọi là trần gian. Ở đó tất cả đều như bông hoa này, là đẹp và chóng qua, kể cả màu tóc xanh của ngươi và sắc đẹp của nàng. Đừng ngoái lại thiên đường làm gì, vĩnh hằng đã ở sau lưng các ngươi và trước mặt là cát bụi. Chỉ một điều đáng giá hãy nhớ lấy là các ngươi giờ đây trở thành con vật biết đau khổ.
Sa Tăng từ biệt quay về, đầu cúi xuống trong dáng của một người kiêu hãnh trong nỗi cô đơn của mình. Hai người chợt ồ lên khi không còn thấý cái “đuôi quỷ” đằng sau ông, nó đã rụng mất đâu từ lúc quay lưng về phía địa đàng.
Adam ngồi chống tay vào trán, trong khi Eva bật lên những tiếng thổn thức mà lần đầu tiên chàng chợt biết đến ở nơi người đàn bà yêu dấu. Chàng quỳ xuống nâng đóa hoa héo khô, và khi hôn lên mặt nàng, chàng lại ngạc nhiên khi nếm phải những giọt nuớc mắt có vị mặn.
Từ phút đó, loài người chợt nhiên ngộ đạo về toàn bộ bản chất của cõi nhân gian nơi họ sinh sống, và đặt cho vật lạ thức tỉnh kia là "hoa phù dung”.
(Nàng - ngồi đối diện với tôi, không phải là Eva. Hoặc nếu gọi nàng là Eva thì cũng đúng - thở dài, rồi chợt cười ngặt ngẽo, mái tóc huyền rung động trên đôi vai tròn dưới chiếc áo len màu xanh da trời).
- Anh lôi từ đâu ra cái câu chuyện hắc ám đó?
- Đấy là “huyền thoại về hoa phù dung đầu tiên”. Tôi đọc trong kinh thánh.
(Nàng bĩu môi - tôi lại nhìn vẻ đào yêu của một trái chín)
- Kinh thánh của riêng anh!
Nắng vàng lạnh, sương mù phủ khắp khu vườn, nàng theo tôi ra cổng dừng lại bên những cây mimosa sáng bừng trong màu hoa vàng tươi, những chùm hoa gần nhả hương nồng, giống như mùi phấn hương riêng của những chiếc khăn thiếu nữ. Sương mù len lỏi trong tóc nàng, vương vít trên áo xanh nàng, và nàng cười dịu dàng nói:
- Ở đây lâu, chắc em cũng thành sương mù mất thôi. I
Tôi lại đến rủ nàng đi chơi và khi nàng vội vã nhét áo mưa vào túi xách, tôi chợt nhận ra màu áo lục tươi năm nọ. Tôi thẫn thờ một mình:
- Thì ra Lục cô nương vẫn giữ nguyên màu áo ấy!
Nàng nguớc nhìn tôi bằng một thoáng dò hỏi. Chợt hiểu ra, nàng cúi đầu lẩm bẩm đằng sau mớ tóc che nửa mặt:
- Tuởng không biết chi hết. Té ra cũng biết được một hai điều...
Nhiều ngày chúng tôi lang thang như những đám mây, qua thung lũng và đồi núi vắng bặt như không còn có ai trên đời. Nàng như đã quên hẳn tên hoa La tinh, líu lo nói với tôi những cuốn phim mà nàng ưa thích. Hóa ra nàng toàn thích những phim buồn. Qua bao nhiêu đại tác phẩm của
Chúng tôi ngồi nghỉ dưới một cây tùng. Nàng dựa đầu vào vai tôi. Trời gió nhẹ, mây trắng từng tảng dày sà xuống mặt đất kéo đi như một đàn cừu. Tôi ghì chặt nàng trong chiếc hôn sâu thẳm tận tiền kiếp. Nàng để yên gương mặt trong lòng bàn tay tôi vâng theo nỗi mê đắm của tôi, có ý cho tôi hiểu rằng sắc đẹp của nàng giờ đây hoàn toàn thuộc về quyền sở hữu của tôi. Mây đã chiếm lĩnh hết mặt đất, lấp kín tầng cây thấp, mây ngập đến đầu gối tôi; cả nàng và tôi như đang trôi dạt trong xứ sở của băng đảo. Cuối cùng cả hai chúng tôi chìm đắm trong mây trắng. Qua màn mây, nhan sắc của nàng mỏng manh lạ lùng, và vì thế, diễm lệ hơn bao giờ hết, như thế là nàng không thuộc về cuộc đời này nữa. Nàng ép đầu vào vai tôi, và tôi nghe tiếng nàng vọng lại từ rất xa, tuồng như nàng đang chơi trốn tìm với tôi trong những đám mây.
- Em là ai trong đời anh?
- Em là một ảo ảnh.
Tôi đã có một giao ước riêng trong chiến tranh, rằng tuổi trẻ của tôi đã dành sẵn cho cái chết. Tôi siết trong vòng tay tấm thân run rẩy của nàng, và tự nhiên thấy đau lòng khôn xiết.
- Em sẽ sống cuộc đời dài vừa một ảo ảnh, chỉ để yêu anh mà thôi.
Nàng đăm đăm nhìn tôi, nói bằng giọng trang nghiêm mà tôi hiểu rằng người ta chỉ dùng để nói một vài điều nào đó trong cả đời người.
Rồi chiến tranh đã cuốn tôi và nàng bay như lá bay, qua những phương trời.
* * *
Tôi rời bệ chúa, lắc lắc vai cho đỡ mỏi, tỉnh dậy khỏi một cơn trầm tư dằng dặc gần một đời người. Ngoài thềm, trên những địa y đầy màu huyền, những cây lan chi thiên vẫn nở như chưa quên màu áo của nàng năm ấy. Nàng đã quen gọi hoa rừng bằng những cái tên thơ mộng của chúng, chỉ loài hoa lan chi thiên này tên là lan sậy. Nàng không thích, nàng bảo tôi đặt tên khác cho cây arundina graninifolia này của nàng. Vậy thì em là nàng - lan nhiều nên có tên là nàng - Nàng hoa Nàng - Nàng. Nàng vẫn với tôi, mộc mạc nhưng quý hơn bất cứ loài lan nào trên Bạch Mã này.
Mây thưa dần, những đám mây ngay trước mặt tôi phản ánh mặt trời, chói lên màu cầu vòng rực rỡ. Ngọn núi này quả là xứ sở của mây. Những người già vùng Cầu Hai nói rằng ngày xưa khi đi rừng, người ta thường gặp tiên ngồi đánh cờ, ngựa của tiên mãi đi ăn ở đồng cỏ xa, khi trở lại thì tiên đã bay về trời. Ngựa nhớ chủ lang thang đi tìm, hóa thành mây trắng. Núi mang tên Bạch Mã là do vậy. Hình như khi tôi hôn nàng, mây đã nhiễm vào tới đan điền, nên tôi mang mể suốt đời. Cảm ơn mây trắng, đã ban cho tôi món quà tặng quá đẹp của Vô Thường.
* * *
Tôi ngoảnh nhìn ngôi nhà đổ của ông Ngô Đình Cẩn. Ông đã xây cất nên một cơ ngơi như thế này mà chẳng hưởng được bao lâu. Chỉ ba bốn năm sau, ông đã phải vất lại hết sau lưng để đi tới cọc xử bắn của khám Chí Hòa. Tội nghiệp cho ông cậu, thì ra quyền lực cũng phù hư đến như vậy, chỉ còn lại một phế tích đứng dầm mình trong mây đầu non. n
Với tôi vẫn là thế, những phế tích luôn luôn mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp đau đớn của những thành tích còn lưu lại trên tro tàn của những gì mà con người từng xây dựng nên và tưởng rằng sẽ tồn tại mãi mãi.
Sách xưa nói rằng năm trăm năm một lần biển xanh hóa thành ruộng dâu. Bạch Mã như thành phố ảo ảnh trong sa mạc, huy hoàng phút chốc rồi tan biến, chỉ còn lại một bóng núi lau mờ...
H.P.N.T