Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 30/03/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Anh Duật

Đ

ọc anh Duật thấy nói nhiều đến lửa, chỗ nào cũng lửa, lửa trong từng câu, trong từng bài và ở ngoài bìa những tập thơ. Lửa đèn, Vầng trăng quầng lửa, Đường dài và những đốm lửa. Về sau này còn có Tiếng bom và tiếng chuông chùa viết vào những ngày hòa bình mà vẫn cứ bập bùng ánh lửa. Lửa với anh Duật là những kỷ niệm không phai nhạt, là một biểu tượng sống, một phẩm chất làm nên cốt cách của anh. Trong anh Duật có một ngọn lửa vẫy gọi và nâng bước. Nhiều trang ở tập văn xuôi Kim cương bất hoại còn đang dở dang và tập Vừa làm vừa nghĩ in năm trước anh đã dành nhiều đoạn mang trí tuệ cao để luận về lửa. Lửa nóng và lửa lạnh, vĩnh hằng biến ảo, sắc sắc không không, lửa trong đống nhấm bên đường của người đi gửi lại cho người đến, lửa chuyện trò cùng bạn bè và lũ con trẻ mai này. Dễ hiểu thôi vì Phạm Tiến Duật là người sống trong lửa, bước vào lửa và từ lửa lại bước ra.

Đầu tháng tám năm 1964 nổ ra sự kiện Vịnh Bắc bộ, tàu khu trục Madoc của Hải quân Mỹ xâm phạm hải phận ta, tảng sáng có đánh nhau, các vạn chài không ra khơi, được lệnh ẩn nấp. Trên vùng trời những tốp phản lực Mỹ vượt vĩ tuyến 17 oanh tạc dọc duyên hải từ Vĩnh Linh tới Hòn Gai. Pháo phòng không đồng loạt bắn trả. Đấy là sự khởi đầu cho một cuộc chiến tranh leo thang khốc liệt kéo dài suốt tám năm. Bom đã rơi trước cổng nhà, nay mai sẽ là Thanh Hóa, Nam Định, Hải Phòng và sau hết sẽ tới Hà Nội phải gánh chịu những tổn thất không mấy nhẹ nhõm. Hà Nội mất ngủ, Hà Nội thức với những cuộc chuyển quân dàn trận, sẵn sàng đón nhận mọi thách thức. Miền Bắc vào cuộc, chia lửa với miền Nam.

Một hôm đồng chí Phạm Văn Đồng tới nói chuyện với tập thể thầy trò trường Đại học Sư phạm Hà Nội, lúc sắp ra về đã hỏi, những ai ở đây tình nguyện đi chiến đấu? Hàng nghìn cánh tay con trai con gái lập tức đưa lên, mái gồi hội trường lớn lay động trong tiếng hô Lên đường, Lên đường!

Ông thủ Tướng tóc hoa râm trên bục nhìn xuống đám đông rừng rực, miệng thì cười mà đôi mắt lại rơm rớm muốn khóc. Rồi ông cụ nắm chặt hai tay mình mà đưa lên cao.

Tháng mười, sân trường diễn ra những cuộc chia tay kẻ ở người đi. Càng về sau càng nhiều gay gắt, càng gay gắt thì càng lắm lên đường, mỗi năm mấy bận có lệnh tuyển quân, nhiều trường có sáng kiến nhập mấy lớp vào làm một để giảng đường đỡ trống vắng. Trong muôn người khoác ba lô ra đi quả thật lác đác vẫn có đôi người lùi lại. Xuất hiện bệnh đau đầu chóng mặt, xuất hiện những xanh xao thiếu máu trên những khuôn mặt tẻ lạnh và đã có hiện tượng xin tạm về nghỉ dưỡng bệnh ở quê nhà vì chương trình học tập nặng quá. Anh Duật cùng hàng trăm anh em khác đã trở thành người lính trong cuộc lên đường có ý nghĩa mở đầu của sinh viên thủ đô. Họ là sinh viên năm thứ tư Khoa Văn, vừa đi dạy thực nghiệm về.

Giờ đây ngồi điểm lại, thấy nhiều anh trở thành cán bộ có cương vị trong nhiều khu vực xã hội. Và cùng với anh Duật, có cả chục người sau này đã trở thành nhà văn, cống hiến không ít cho sự nghiệp chung. Một Ma Văn Kháng vạm vỡ, một Nguyễn Khoa Điềm nghĩ ngợi, một Nguyễn Đình ảnh ung dung, một Tô Hoàng trầm tĩnh, một Nghiêm Đa Văn ào ạt, một Lâm Quang Ngọc thong thả, một Trần Quốc Anh lên trận địa cao xạ Linh Cảm làm thơ, đọc thơ và ngã xuống ở đó như một thà thơ. Các anh đều thấy vui mừng vì trong đội ngũ chung đã có một Phạm Tiến Duật, và các anh đều hiểu cái giá của một câu thơ bạn mình đã viết Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Hiểu nó bằng chính những gian lao mà mình đã nếm trải. Và chỉ những người như các anh mới thấy đằng sau câu thơ tưởng như không có gì ấy lại là có rất nhiều và cũng không ít ghê gớm.

Trong lần cho tái bản tập Thơ một chặng đuờng anh Duật đã phải chua một lời bình dưới bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây. Có một dòng không đúng sự thật, hết rau rồi em có hái măng không. Cả măng và rau chỉ có vào mùa mưa, hết rau thì cũng hết măng. ở phía Tây  Trường Sơn vào mùa khô bộ đội phải ăn cả củ măng ngựa, một củ còn chát hơn cả củ nâu. Nhưng chẳng nhẽ lại viết, hết rau rồi em có đào củ măng ngựa hay không? Đôi khi thơ chỉ cần gợi mà không cần thực vậy. 

Về bài thơ này có lần một nhà thơ cùng lứa với tôi, lại là người bình văn rất chăm chỉ, đã chê câu Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Xem ý tứ anh ta nghĩ ngược lại. Với tôi, đây là câu thơ tả thực. Ai đã từng ra trận trong những ngày ấy hẳn rõ. Dù đổi mới đến đâu cũng không nên nói ngược.

Đấy là một lời nhắn nhủ buồn buồn hàm ý chê trách nhẹ thì phải. Nhân đây cũng xin được kể một chuyện để cùng hiểu thêm về anh.

Có một đêm vui bạn vui bè anh Duật đã uống nhiều rượu, nằm vật trên chiếc ghế bọc da trong phòng làm việc, tay chân nguềnh ngoàng cái co cái duỗi, nghe có tiếng tôi gọi anh vội choàng dậy, ngơ ngơ ngác ngác mắt nhắm mắt mở, vậy mà chỉ một thoáng lại tỉnh táo như thường, lại đã như một kẻ khác. Anh cho biết suốt ngày chạy như cờ lông công để lo làm thủ tục lập Quỹ Mãi mãi tuổi hai mươi rồi lại còn phải làm cuộc vận động để nâng tờ Tạp chí không ai đọc lên một tờ báo lớn xứng tầm là tiếng nói của mười Hội. Tôi ngồi vừa nghe vừa nhòm vào khuôn mặt hốc hác của anh, thấy cái mũi khoằm đang mỗi ngày một dài ra mà lấy làm sốt ruột. Tôi nói, người ta xếp anh vào ngồi ở chỗ này là muốn anh hãy cứ yên ổn cho chúng tôi nhờ, là gọi anh vào xó bếp bàn chuyện thiên hạ, vậy thì cựa quậy mà làm gì.

Anh Duật gườm gườm nhìn tôi rồi lắc đầu chán nản, bàn chuyện với thằng lười thật phí lời, toàn bàn lùi, thế là hết lửa mất rồi, thế là sống cũng như chết. Nói rồi anh vơ vội cây bút trên bàn, tiện có tờ báo đang trải rộng trước mặt anh vạch liền mấy nét ngang dọc, rồi sau đó vẽ thêm một hình vuông có bốn cửa mở. Anh hất đầu hỏi tôi, có biết đây là đâu không? Tôi lắc đầu, chỉ thấy bài thơ Dàn khoan nhìn từ thềm Bạch Hổ của anh vừa in trong tờ báo đó đang bị dìm ngập dưới những gì mà anh đang vẽ. Anh nói đấy là thành Quảng Trị mùa hạ 1972. Mỗi ngày ngã xuống đúng một đại đội đủ, một đại đội đủ là từ một trăm tám đến hai trăm người. Tám mươi mốt ngày ở đây là tám mươi mốt đại đội đủ ra đi. Chỗ này là chỗ vượt sông, đây là nơi có hỏa lực chốt chết, chỗ này là bãi giấu thương binh, còn chỗ này là nơi đã có những trận giáp lá cà. Tôi ngờ nghệch như chú liên lạc đang ngồi nghe ông tướng dặn dò trước lúc mang lệnh lao vào chốn trận mạc. Và tôi chợt hỏi mình, người thế này mà tổ chức không xếp nổi cho một cương vị xứng đáng thì lạ thật, chỉ để anh làm thơ là lãng phí mất một nửa tài năng. Chả trách ngày còn sống ông Tố Hữu thường dặn đi dặn lại, mình là nhà cách mạng làm thơ chứ không phải là nhà thơ làm cách mạng, nghe thế phải hiểu nhà cách mạng làm thơ ở một đẳng cấp, mà nhà thơ làm cách mạng lại ở một đẳng cấp, có khác nhau đấy.

Đầu những năm bảy mươi thế kỷ trước anh Duật chỉ suýt nữa là được bổ sung vào Ban lãnh đạo Trung ương Đoàn, lúc đó là ông Nguyễn Lam và ông Vũ Quang phụ trách. Nếu không gặp cái hạn bị nhắc nhở bởi bài thơ vớ vẩn Vòng trắng thì giờ khéo đã ngồi ở đâu chứ chả phải là ở xó buồng này. Rồi nhiều năm cánh bộ đội chúng tôi đã vịn vào những câu thơ của anh để ra trận, những câu thơ có lửa.

Nhớ lại những năm ấy mà thấy vui. Xuân Quỳnh gặp tôi ở đầu đường Bà Triệu mặt tươi như hoa, quần đen áo trắng phanh kít xe đạp hỏi dồn hỏi dập, đã thấy ông Duật mò ra chưa? Tôi gắt, bà này lạ nhỉ đang là mùa khô, mùa khô trong ấy là chỉ có đi vào, ai cho bà hỏi thế! Quỳnh xuê xoa cười, biết rồi, nhưng vì mong quá mới phải hỏi. Chùm Lửa đèn của ông ấy sắp in, in cả năm bài kín hai trang báo. Tôi làm thường trực cuộc thi, xin nói nhỏ với ông cuộc thi đến cuối năm mới kết thúc nhưng đã có thể xem như tìm được thủ khoa rồi. Phen này thì ông Duật đúng là đai đen lên võ đài, tất cả mời dãn ra hết.

Đến ngày báo Văn nghệ tổ chức trao giải, có làm công văn đề nghị Tổng cục Chính trị gọi Duật ra cho mọi người được thấy mặt vị tân khoa, nhưng ông Chính Hữu đã gọi Ngô Văn Phú lúc đó vừa từ chỗ Duật về mà bảo, cậu sang bên Văn nghệ nhận giải nhất cuộc thi thay cho Phạm Tiến Duật vì lí do ở xa không về kịp. Đây là vinh dự của Duật mà cũng là của toàn quân, nếu phải đứng ra phát biểu thì cứ thế mà nói.

Lúc đứng lên tổng kết cuộc thi ông Chế Lan Viên lẫm liệt như vừa được uống thần dược, ông nói, đây là một sự kiện lớn trong đời sống văn học, rất nhiều năm sau sẽ khó có thể thấy, bởi vì từ hôm nay chúng ta đã có một Phạm Tiến Duật. Sự xuất hiện của anh trên văn đàn là sự xuất hiện của một bút pháp, có sức đột phá, có sức khai mở một thi pháp. Ông Hoài Thanh vừa chân ướt chân ráo từ Viện Văn sang làm Chủ nhiệm báo đến bên Ngô Văn Phú mà hỏi ân cần, Duật còn ở ngoài này bao lâu, tòa soạn muốn làm một cuộc gặp gỡ riêng với anh. Anh Phú lúng túng nói, Duật bận nên vắng mặt, tôi là người được ủy nhiệm thay mặt anh ấy đến nhận giải thưởng. Ông Hoài Thanh buông đúng một câu ''vậy hả'' rồi lảng liền. Giải nhất cuộc thi thơ là chiếc Orionton được lấy ra từ một thùng quà viện trợ, anh Phú vừa ôm nó chưa ấm tay thì đã có người thì thầm bên tai, chiếc đài còn có chỗ trục trặc, xin đồng chí tạm cho mang về để sửa tiếp, đã là quà của Trung ương Đoàn tặng là phải đại tu thật cẩn thận.

Ngày ấy đời sống quá nghèo, một cái đài xách tay như thế được xem là một gia tài. Một chiếc xe đạp cũng là một gia tài. Tất nhiên với anh Duật thì đó hình như cũng chưa phải là cái gì quá lớn. Anh là người đã quen chẳng nhìn thấy gì là lớn. Trước khi trở thành lính Trường Sơn anh đã có mấy năm là lính Cục Vận tải. Bộ phận các anh dọn ra ở nhờ mấy căn buồng trong sân báo Độc lập, một ngôi nhà đẹp trên phố Lý Thường Kiệt, nhòm sang một cái chợ gọi là chợ Âm Phủ. Gần đó, bước mấy bước qua đường Dã Tượng lại là một ngôi nhà hai tầng khác quét sơn trắng xóa cũng rất đẹp, đó nguyên là nhà bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, tháng 12 năm 1946 bố con ông bị kẹt lại trong thành, sáng ra tây trắng, tây đen lố nhố bổ vây quanh nhà, thế là một cuộc chiến không cân sức nổ ra, một trận đánh quyết tử, hai cha con ông bác sĩ yêu nước đã nằm lên nhau mà chết, trong tay mỗi người vẫn đang có một khẩu súng lục cũ kỹ. Anh Duật nói rồi sẽ có ngày chúng mình phải làm trường ca, phải làm tiểu thuyết về những ngôi nhà Hà Nội. Dưới gầm giường anh nằm là mấy cái thùng cát tông lớn, đó là những chiếc thùng đựng đầy máy thu thanh Trung Quốc mới toanh, có hai loại, lớn gọi là ông Mao, nhỏ gọi là Mu Tan. Mu Tan tức là mẫu đơn, Xong Mao tức là hùng mão, con gấu mèo. Anh Duật được giao nhiệm vụ giữ đống đồ quý giá ấy để phân phát dần dần cho các đơn vị xe ở xa. Vậy mà có một hôm anh bảo Chu có thích thì cứ cầm lấy một cái mang về mà nghe tin tức và âm nhạc. Tôi nói tôi chỉ thích nghe đài khi họ đọc bài của tôi thôi, chứ tôi không có nhu cầu đeo đài, anh cho tôi hôm trước, hôm sau tôi lại phải cho ai đó.

Một lần nọ khi anh Duật đã vào Trường Sơn được mấy năm rồi vẫn có một nhà chị tìm tôi để hỏi thăm về anh. Chị xin ý kiến tôi, hồi chị đi lấy chồng anh Duật có mang cho mượn hai chiếc đèn măng xông, giờ chị đã có con mà cứ phải giữ mấy cái đèn ấy, đi sơ tán cũng phải tha theo, vậy phải làm sao bây giờ. Tôi cho ý kiến xem có ai mua thì bán, bán rẻ khắc có người mua, không có ai mua thì mang cho, ông Duật ông ấy quên rồi, đơn vị có đèn cũng đã giải tán đi vào sâu rồi. Chị là một nhà ngôn ngữ học đang công tác ở Viện Ngôn ngữ, bạn cùng một lớp với anh Duật hồi còn đại học. Chị là người yêu văn học và hiểu văn học, cho nên lần ấy chị đã nói với tôi, bài Vòng trắng của Duật viết thế thì có gì đâu mà lôi anh ấy ra đánh, tôi đang lo hay là tại hai chiếc đèn măng xông tôi còn đang giữ. Anh Duật bị đánh được mấy ngày lại thấy đánh lây sang cả anh Ngô Văn Phú, anh Phú chưa kịp hiểu bài thơ Cái sẹo đấtcủa mình có tội tình gì thì lại đến Vũ Thị Thường bị lôi ra phê phán bởi một cái truyện ngắn chẳng thấy có gì gọi là ẩn ý. Không đừng được ông Nguyễn Khải trước tình thế ấy đã nổi máu uất kêu trời, ông cầm bút viết bài báo Chúng tôi chăm sóc những tài năng! Chị hỏi, tôi tóm tắt tình hình văn học vừa qua như thế liệu có đúng không anh? Tôi gật đầu. Lại chợt nhớ đến một câu chặc lưỡi của ông Kim Lân, ấy cứ lúc nào bí là lại lôi văn nghệ ra đánh túi bụi. 

Cả hai lần vào Trường Sơn tôi đều đã tìm đến anh Duật. Một lần ở Đường 20, một lần ở Đường 18B. Từ chỗ tôi đang ở tới Bộ Tư lệnh 559 phải đi bộ cả ngày, đường rừng qua đèo qua suối là lẽ thường, cứ hướng Xê Băng Hiêng chảy mà lần theo. Các đồng chí bảo vệ Bộ Tư lệnh hỏi tôi đến tìm ai trong cơ quan đầu não ấy, tôi nói tôi vào với anh Phạm Tiến Duật, vậy là anh em vẫy tay cho vào luôn chả cần giấy tờ gì nữa. Trên mọi nẻo đường Trường Sơn còn có ai không biết đến anh Duật, cho nên khi họ thấy tôi là bạn của anh thì tự dưng cũng được quý theo. Hôm từ chỗ anh Duật về nhỡ độ đường phải tạt vào nghỉ tạm một đêm trong hang đá vùng Lằng Khằng, Khăm Muộn. Cô đội trưởng thanh niên xung phong chủ của cái động ấy hỏi dò về tôi qua người chiến sĩ dẫn đường, biết tôi làm báo thì cô cũng chỉ vui vầy vậy thôi, khi nghe loáng thoáng thấy trong câu chuyện tôi có nhắc đến anh Duật thì cô đã nhìn tôi bằng một con mắt khác, nói năng đã thấy mặn mà hơn nhiều. Đến lúc đã có thể xem tôi là khách quý, cô còn muốn thử một lần nữa. Cô lựa lời hỏi thế anh có thuộc câu thơ nào của anh Duật em không? May sao tôi lại nhớ được mấy câu thơ của anh, vậy là tôi đọc to cho cả nhà cùng nghe, đám con gái tung chăn vùng dậy, cười nói râm ran, họ bấm nháy nhau bắt gà thổi cơm. Đấy là bài Cô bộ đội ấy đã đi rồi, nay xin chép để tặng cho những ai yêu anh Duật, và cũng là để phòng xa ngộ có lúc lại nhỡ độ đường chăng. Em gái đi các anh ở lại/ Biết bao giờ mới gặp được em đây/ Thôi em đừng bẻ đốt ngón tay/ Nước mắt dễ lây mà rừng thì lặng qúa/ Anh biết rồi bao nhiêu vất vả/ Tháng năm dài cùng nhau đi qua. ..

Mỗi lần rời nơi ấy ra về, tới cửa rừng tôi đều ngoái lại rất lâu, núi đấy, rừng đấy, anh em đồng chí tất cả vẫn đang còn trong đó. Những con đường đang mở, những bãi bom đang cháy, những cơn sốt rét của miền rừng Xavanakhét, tiếng Lào nghĩa là con quỷ nước. Mùa khô đến, những bào thai chiến dịch cựa quậy, những đoàn quân vượt qua cái đói mà đi, dũi đất mà đi như những con xuyên sơn dũi núi. Tôi nghĩ tới cái tòa soạn chỉ có dăm bảy anh em của báo Trường Sơn, họ là những người lính làm báo cho lính đọc và do vậy tờ báo đã được đón nhận như thể đón thư gia đình gửi tới. Tôi thường chạnh một nỗi lo, nhỡ lần sau quay lại Duật không còn nữa, hoàn toàn có thể chứ, những người đang có mặt trong ấy từ tướng lĩnh tới một binh nhì sau một trận bom đều dễ nằm xuống.

Và tôi đã nhìn ra cái lý do chủ yếu để giải thích vì sao những bài thơ của Duật lại sớm được quần chúng trân trọng chào đón. Rất đơn giản, anh là một người lính làm thơ cho lính đọc, anh chưa bao giờ sắm vai người nói hộ, chưa bao giờ yêu hộ, khóc hộ, lo âu hộ. Anh là người một đời cõng lửa, chưa bao giờ vui quá, chưa bao giờ sướng quá, chưa bao giờ được làm một nhân vật quan trọng, nhưng anh vẫn luôn luôn là người biết hát, dám hát, dám sống và viết như chính mình nghĩ thế, cảm thế về những năm tháng mà mình đã đi qua.

Một hôm chúng tôi rủ nhau ra suối tắm, khi lên bờ tôi thiếu quần đùi để thay anh đã chạy về hầm tìm một chiếc mang ra cho tôi, Chu mặc tạm, anh nói ngọt ngào. Tôi đã mang chiếc quần đùi của anh tới Bản Đông rồi quay về Hà Nội Lúc chia tay, anh Duật mới mang một lá thư nhỏ cho tôi xem, cầm lá thư tôi nhận ra ngay nét chữ mẹ mình. Bà cụ ngồi ở Bắc Ninh viết thư cho Duật gửi vào qua đường bưu điện. Cuối thư bà đã tặng Duật hai câu thơ không hiểu là để động viên riêng anh hay lại muốn động viên cả toàn quân nữa: Còn nhiều bộ đội phất cờ/ Cho nền độc lập bấy giờ mới xong. Mẹ tôi quý anh Duật cũng như mẹ anh Duật đã quý tôi. Bà thường nói mỗi khi nhắc đến anh, anh ấy có mười mày chả được một, người ta lẫy lừng mà vẫn lễ độ, còn mày rõ chán.

Các bà mẹ của chúng ta đều thế cả, không một đứa con nào đủ khôn đủ lớn trước các bà . ấy là vì người mẹ nào cũng đều đặt nhiều mong muốn vào đứa con mình. Hôm ấy tôi đã trả lại anh bức thư mẹ tôi gửi vào, và bâng khuâng hỏi anh, lá cờ mà bà cụ viết trong này phải hiểu thế nào? Anh Duật đáp lại tắp lự, lá cờ là để nói đến những gì thiêng liêng và nồng cháy nhất, một khi muốn nói đến những điều đó mà chưa biết nói ra sao thì chỉ còn biết gọi đến lá cờ. Trong Nhã ca của Kinh thánh cũng có một câu nhắc tới lá cờ: Em hãy về vườn xưa xem cây thạch lựu đã nở hoa chưa/ Tình yêu của anh như lá cờ phất trên mình em/ Phải chi em là em gái của anh, Để anh được gần em từ tấm bé.

Ngày anh Duật lấy chị Vân, cô giáo người Hà Nội, mẹ anh từ Thanh Ba, Phú Thọ đã lặn lội về để lo việc cho con trai. Bà được xếp nghỉ tại nhà một anh bạn chúng tôi trên đường Ga Hàng Cỏ, đó là nhà nhạc sĩ Trần Tiến. Tính ra thì đúng hôm ăn hỏi tôi lại phải xuống đơn vị, do vậy tôi đành mò ra trước để chúc mừng hạnh phúc của anh. Tại đó tôi đã được gặp bà cụ, và cũng chỉ được gặp có một lần ấy.

Tóc bà trắng, vầng trán cao, dáng rất thanh nhã . Anh Duật giống mẹ. Bà cụ ngồi cùng tôi bên khung cửa mở rộng nhìn xuống con đường hẹp đang có những chuyến xe điện leng keng chạy đi chạy lại. Vầng trăng càng khuya càng sáng, trăng đang bay hay mây đang bay. Đêm sương lạnh, những tán cành rụng hết lá của cây bàng cổ thụ hiện lên đen đúa, rối loạn. Bà già hỏi tôi đứng tuổi gì, tôi thưa cháu tuổi Giáp Thân, bà lại nói, Duật chính ra phải tính là tuổi Canh Thìn, đi học khai bớt một tuổi. Nó có lớn mà sợ chả có khôn, tính tình mơ mộng viển vông từ bé, cháu tuy ít tuổi hơn nhưng vẫn cứ là một lứa, cháu nhớ săn sóc Duật. Tôi nắm bàn tay gầy guộc của bà, bàn tay của các bà mẹ chúng ta đều thế, lủng củng những đốt những ngón. Một bàn tay của bà mẹ đồng rừng, từ thượng du xuống phố lặng lẽ và rụt rè. Bàn tay một người đã sinh ra cho đất nước một nhà thơ lớn từ những năm anh mới ngoài hai mười tuổi. Giờ đây bà không cần biết đến những điều xa xôi đó, bà chỉ mong đứa con của mình đi suốt cuộc đời vẫn đừng có gặp những đắng cay mà chính mình đã gặp. Tôi nói với bà không một chút do dự, anh Duật là niềm tự hào của đất nước, bà chớ lo lắng gì cả. Chữ Nho có bộ duật, duật ở đây không phải con cò, duật là cây bút. Phạm Tiến Duật là cây bút quý của nhà họ Phạm.

Bà cụ vỗ vỗ vào tay tôi nhẹ nhàng cười, ông ấy nhà tôi đặt tên cho nó đấy, bố Duật đã có nhiều năm dạy học, làm Hương sư rồi làm Tổng sư, nhiều lần đã giải nghĩa cái tên của nó cho tôi nghe như anh nói hôm nay. Thuở con gái tôi đã theo người nhà mang sơn ta lên tàu hỏa về Hà Nội bán cho các hiệu buôn, sơn đựng trong những chiếc ghơ tre, chữ nghĩa nào có biết. Nuôi con thì được mà dạy dỗ con cái lại phải trông vào chồng, ông ấy nghiêm lắm, trẻ con gặp từ xa đã cung kính khoanh tay trước ngực.

* * *

Anh Duật không phải chỉ sống với Trường Sơn, đó là những năm đầu vào đời mà thôi, về sau anh còn nhiều dịp đi khắp mọi miền tổ quốc, đến nhiều nơi trên thế giới, gặp gỡ nhiều người, thấy nhiều cảnh ngộ, và đến đâu anh cũng có thơ. Thơ với anh như một thứ nhật ký, thấy ngay, nghĩ ngay và viết ngay. Để làm được thế rất nhiều khi anh đã không cần đếm xỉa tới nghệ thuật nữa thì phải, âu đó cũng đang là cách tìm kiếm thể nghiệm, anh muốn thơ mình phải là tiếng nói hàng ngày trước những vấn đề thời sự nhất.

Đến Căm-pu-chia anh có Bức tường thứ năm của ĂngCo.

Đến Lào anh có Ngủ ở Ăng Khăm nghe tiếng vượn

Đến Nga anh có Tuyên bố chung với những hàng cây  Matxcơva

Đến Bắc Âu anh có Yên tĩnh Côpenhaghen

Đến Mỹ anh có Lạm tóc của gia đình Hakin.

Sau tất cả anh vẫn không thể không trở về với chính mình. Đã có câu, người ta không ai có thể nhảy ra khỏi cái bóng của mình được. Một lần tới Hải Phòng nghe người thủy thủ già kể về những con tàu mang tên các dòng sông quê nhà, anh chợt ngẫm thân phận thật của mình và anh viết: Và lúc ấy tôi giật mình bỗng thấy/ Tôi một dòng sông không có tên tàu.

Càng sống càng nhiều trăn trở, thơ cứ ít dần, anh quay ra cày xới mảnh đất văn xuôi và ngày ngày lấy việc hoạt động trong giới báo chí làm vui. Cũng không sao cả, ở đời không nhất thiết cứ phải làm thơ, thơ dù rất cao quý cũng chưa phải là tất cả, thơ dẫu sao cũng vẫn chỉ là một trong ngàn vạn vẻ đẹp vốn có của loài người mà thôi. Đến một lúc nếu cả nước mà cùng làm thơ thì cũng phải giật mình không biết nên nhìn đó là phúc hay là họa. Chế Lan Viên trong một ngày vắng của Hà Nội năm ấy đã có những câu thơ dự báo, ông viết: Chưa bao giờ đất nước lắm dị tặc, dị hình đến thế !

Nhưng chừng như thơ với đời anh vẫn là chuyện sống còn, như một định mệnh. Sau một lần vào thăm Văn Miếu đứng thơ thẩn cả buổi, lang thang ngắm hồ Văn, chuyện trò cùng những dãy bia đá, anh Duật ra về đã cầm bút làm một bài thơ văn xuôi mang khẩu khí của một bản tuyên ngôn, như một cam kết với chính mình:

Tôi muốn trở về những thôi thúc ngỡ như vô thức của thuở ban đầu.

ấy là chiếc áo mới phát sáng của những tháng năm bần hàn ở thôn làng tôi.

Tôi muốn trở về những thôi thúc tưởng như vô thức của thuở ban đầu.

ấy là sự ngỡ ngàng kinh dị của bầu vú thứ nhất và nỗi nhớ thứ một nghìn lẻ một ngỡ như không thể chịu đựng nổi.

ấy là khúc hát đầu tiên ngây ngô và thật thà mà anh chiến sĩ của Đại đoàn 308 dạy tôi trên cánh tay cha chú của anh.

ấy cũng là cảm xúc đầu tiên, bài thơ đầu đời được in trên báo. Phút hóa thân đầu tiên của những con chữ viết tay hóa rồng thành tipô đã làm trái tim ta sung sướng, hồi hộp biết nhường nào.

ấy cũng là những lời chửi mắng thứ nhất mà ta được nghe về chính thơ ta viết thốt lên từ miệng người không quen ta gặp lần đầu.

Tôi muốn trở về những thôi thúc ban đầu.

Và như thế, những háo hức nào là hướng nội và những háo hức nào là hướng ngoại, tôi không cần biết tới.

Và như thế, thơ cần gắn với chính sách hay ở ngoài chính sách tôi không cần biết tới nữa.

Và như thế, thơ cần khuôn thước như Bắc Hà hay cần xô bồ như Nam Kỳ tôi không cần biết tới nữa.

Và cuối cùng, thơ có cần bán được hay không và có lãi hay không tôi không cần biết tới nữa.

Hóa ra thơ là không dễ dàng. Thì chúng ta vẫn đang chờ đợi ở anh một lần nữa sẽ phát sáng như quầng sáng của cây đèn hắt lên trước lúc cạn dầu. Đó là ánh hồi quang của những tài năng. Vậy mà buồn thay bỗng một ngày anh lâm bệnh. Bỗng một ngày những đứa con anh báo tin bố cháu vào nằm trong khoa Quốc tế, Quân y viện l08. Một đời anh đã quá quen với cái chết, đã từng nằm kề nó, thế thì đối với anh chuyện này cũng chưa lấy gì làm lớn, tôi vẫn tin ở bản lĩnh của anh và tôi đang thầm cầu trời khấn phật xin cho anh được ở lại thêm lấy vài năm nữa rồi có đi hãy đi. Thế mới biết một ngày sống quý báu biết nhường nào. Dẫu sao vẫn phải hỏi ở đời liệu có ai không đi? Cũng đã là quá đủ để chúng ta có thể nhận chân ra một lần cái biến cái hiện. Cái còn cái mất.

Cái còn mãi chính là khuôn mặt tinh thần của mỗi con người mà nhà Phật gọi nó là Kim cương bất hoại. Tôi biết anh từ lâu đã đọc Thủ lăng nghiêm kinh, Nước chết thì đất sống, Đất chết thì đá sống, Đá chết thì lửa sống, Lửa chết thì khí sống, Khí chết thì nước lại sinh lửa. Mùa này quê anh nước sông Hồng đang tràn lên xô đẩy khắp các bờ bãi. Đường về nơi mẹ sinh anh có qua một con đò, xa xa trên những ngọn đồi là những bãi cọ xanh um tán lá, những cây cọ thân thẳng đứng như một rừng bút soi mình xuống dòng sông đỏ nặng phù sa, sự thực đấy cũng chỉ là nói cho văn vẻ chứ tôi từ nhỏ vẫn chỉ thấy nó, dòng sông ấy chỉ là một dòng sông bùn, quanh năm bùn.

Những năm tháng này, những con đường này, những đồng tiền ta đang cầm trong tay đây và những trang sách ta đọc và những trang sách ta viết, hết thảy đều ướt đẫm hơi bùn của dòng sông muôn thuở ấy.

      ***

Hình như giữa thuật làm thơ và thuật lên đồng có đôi chỗ rất gần nhau. Những năng lượng mang nhiều yếu tố tâm linh được giải phóng triệt để, cảm xúc được đẩy lên tới cao trào, sự tỉnh táo bị dìm lấp, con mắt đảo lên, khoa chân múa tay cười nói huyên thuyên, rồi xiên lình qua má, nuốt lửa vào bụng, ngậm than trong mồm, cờ quạt hò hét tưởng như sắp bay cả lên với nhau.

Nhưng rồi cô Bơ, cô Thoải, ông Hoàng Mười, bà Liễu Hạnh, bà chúa Thượng Ngàn, tất cả đều cũng đến lúc phải tỉnh lại, phải về với gia đình, với chồng với con. Phải biết sống được như mọi người đang sống. Phải biết gồng gánh chợ búa, lam lũ đồng áng, tưới tắm rau cỏ, chăm sóc lợn gà.

Thực tiễn đã dạy cho chúng ta những bài học để sống được như mọi người, có thể chua chát một chút nhưng rất cần thiết. Trong đám các bà các chị có căn khi hầu đồng, có người một đêm theo năm ba giá, lại có người ở độ số cao thì theo liền mấy chục giá. ốp đồng đến bảnh sáng cũng vẫn phải tính chuyện ra về. Đã biết lên thì cũng phải biết xuống. Vừa rồi làng tôi có anh vác ở đâu về chiếc xe máy, đặt thằng con ngồi lên cứ thế nổ máy phóng tít mù. Đi vòng đi vèo từ sáng sớm đến quá trưa, qua cửa đình cửa chùa, chui vào đủ các ngõ, rồi lại lượn ra đình ra chùa. Chỉ có người vợ đang nhóm bếp thổi cơm là nhìn ra sự nguy hiểm đó, chị dụi lửa bếp, cầm cái que cời lếch thếch đuổi theo chồng con, vừa thở vừa chạy, vừa chạy vừa khóc. Lại có người ở làng bên đi qua thoáng trông đã hiểu ra ngay, anh ta nhảy tới xô chiếc xe lao xuống dệ ao, thế là nhà ấy thoát nạn. Cho nên cánh lái xe thường dặn nhau: lùi còn khó hơn tiến, khi đi phải nghĩ đến lúc dừng.

Cuộc đời anh Duật lại có thể phải dừng lại một cách vô lí đến thế này sao, không phải chỉ mình tôi nghĩ thế, rất nhiều người đang nghĩ thế, những ông thầy thuốc Tây y, Đông y đang xem đây như một thách thức lớn với họ. Hàng trăm bức thư từ khắp nơi đã gửi về gia đình nhà thơ mách bảo chỉ dẫn nhiều cách điều trị, nhiều thứ thuốc lạ, nhiều địa chỉ đáng tin cậy. Có nằm ốm thế này, anh Duật mới thấy cái tình người là rất nặng và anh tủm tỉm nghĩ, sao mà lắm thầy thuốc giỏi ở nước ta. Bây giờ thầy thuốc sau cùng vẫn đang kiên gan chiến đấu để giành lấy sự sống cho anh Duật là tiến sĩ Ba, những năm vừa qua ở bên Mỹ người ta gọi anh một cách thán phục là ''ông Ba '', ''ngài Ba ''. Giờ đây ông Ba mang nhiều thuốc quý từ Mỹ về và cùng với thuốc là những bí quyết hiếm có, ông Ba nói, tôi về nước chữa bệnh cho anh Duật như chữa cho một người thân trong nhà.

Việc anh Duật gặp được ông Ba là một cái duyên, ai dám bảo ở đời không có cơ duyên. Có câu, còn nước còn tát. Chí ít thì đây cũng là một niềm an ủi lớn, không phải chỉ cho anh Duật mà còn là cho mỗi chúng ta.

Mấy tuần nay nhà văn Nguyễn Khắc Phục và cháu Tường Hương con dâu thứ của anh Duật đã lao vào chuẩn bị gấp cho việc sớm ra đời Toàn tập Phạm Tiến Duật. Có lẽ chỉ vài hôm tới là tập sách sẽ in xong. Anh Phục và anh Thỉnh, anh Huân định sẽ tổ chức một buổi ra mắt thật hoành tráng cho bộ sách này tại sân vườn Quân y viện l08. Và đó cũng sẽ là cuộc gặp mặt mang nhiều ý nghĩa của đông đủ bạn bè anh em quanh Duật. Buổi gặp mặt ấy mang tên là,Hãy sống như chúng ta đã sống, một câu thơ của Nguyễn Khắc Phục. Và, chiến tranh là vườn trẻ của chúng ta, một câu thơ nữa của nhà thơ Nga Xô Viết Tvác-đốp-xki.

Nhiều năm vừa qua, Phạm Tiến Duật là một hiện tượng lạ trong đời sống thi ca cũng như trong đời sống xã hội. Với tất cả sự trang nghiêm của vấn đề, tôi muốn nói thơ anh, cuộc đời anh là những câu hỏi lớn, những câu trả lời lớn. Những năm tới đây rất có thể nó sẽ trở thành một đề tài để các nhà học thuật nghiên cứu, các nhà lý luận phê bình văn học phải tốn nhiều giấy mực. Chúng ta đã quen nhìn nhau giữa đám đông, chỗ nào cũng thấy đông. Nhìn nhau chỗ đông dễ chịu cho cả người nhìn lẫn người được nhìn, trong đám đông mặt người nhạt nhoà lẫn lộn, nhưng một khi cần phải điểm danh đến từng người là y như rằng ai nấy đều ái ngại.

Xưa có ông vua rất thích nghe cả dàn sáo cùng thổi, như thế mới thật vang lừng, mỗi lần có ''đại khánh đại hỉ'' là sân rồng lại một phen chật cứng những nhạc công là nhạc công. ấy vậy mà ngoài cổng thành người ôm sáo tìm tới vẫn ngày một nhiều, họ chầu chực để được đến lượt mình được gọi vào cái dàn nhạc vĩ đại kia.

Đến lúc nhà vua băng hà, vua con lên nối ngôi ra lệnh từ nay chỉ nghe từng người thổi sáo, không nghe cả dàn cùng thổi nữa. Thế thôi vậy mà lệnh vừa mới ban ra đã thấy cánh nhạc công tản mát bỏ đo, sau vài ngày còn lại mươi bóng. Bếp ăn trước mỗi bữa phải mấy nồi ba mươi cơm, nay là một nồi nhỏ. Đám đông ngoài cổng cũng vãn nhiều lắm.

Nếu Hội Nhà văn chúng ta một hôm nào đó cũng nhận được một cái lệnh tương tự thì liệu tình hình sẽ ra sao đây? Có một điều chắc chắn là trong số những người còn ngồi lại nhất định vẫn có anh Duật. Phạm Tiến Duật sẽ còn ngồi đó lâu lâu bởi chính anh trong mấy thập kỷ vừa qua, nhất là những năm khói lửa, đã làm một cây sáo đứng ở vị trí sô lô.

 

Đ.C

 

 

Đỗ Chu
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 159 tháng 12/2007

Mới nhất

Bộ từ điển bỏ lại giữa rừng sâu

11 Giờ trước

Sau hiệp định Pari, 27/1/1973, chiến tranh tạm dừng, đại đội tôi đóng quân giữa bãi cát Lệ Xuyên, huyện

Đi tìm cỏ

12 Giờ trước

Nhiều lúc ngồi thẫn thờ nhìn đàn trâu bò gặm cỏ dọc triền đê chợt giật mình: Cỏ quê

Chị ấy…

12 Giờ trước

Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế tổ chức một chuyến đi thực tế dài ngày tại Tổng Công

Pa Ling mùa mưa

12 Giờ trước

Tháng 11, dưới cơn mưa rừng tầm tã, chúng tôi tìm về thôn Pa Ling, xã A Vao, huyện Đakrông,

Chiều không tắt nắng

27/03/2024 lúc 16:33

Truyện ngắn của THỦY VI

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

31/03

25° - 27°

Mưa

01/04

24° - 26°

Mưa

02/04

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground