Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 27/12/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Gửi lại vùng sông ấy

C

uộc đối thoại với kỹ sư Nguyễn Minh Giang thật là ngắn ngủi. Anh Giang vừa nhận chức Chủ tịch Hội đồng Quản Trị Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 4 một ngày. Mấy hôm lưu lại thành phố Vinh, được thăm thú trò chuyện với đủ người, đủ việc nhưng việc chính vẫn còn phía trước. Tôi muốn đến sông Bến Hải. Chỗ có cây cầu mới bắc qua sông.

Tôi hỏi một câu thăm dò: "Có bao nhiêu cây cầu đi qua đời anh - Cây cầu nào gây xúc động ớn?" Cây cầu mà anh sắp đến. Cầu Hiền Lương".

* * *

Xe tôi khởi hành từ Vinh, phía sau là tin báo gió mùa Đông Bắc đuổi theo. Suốt hai trăm cây số đường vào, chuyện kể của Giang luồn qua ngực áo mà sưởi ấm. Khi tha thiết như một câu hát của Hoàng Hiệp "Bên ven bờ Hiền Lương, chiều nay ra đứng trông về....". Khi thấp thoáng khuôn mặt của Phi Nga hôm Khởi quay phim Chung một dòng sông. Khi là dáng lom khom của Nguyễn Tuân cúi đếm từng thanh gỗ lát mặt cầu...

Hàng triệu người đã từng tốc tả vào đây để đứng khựng lại mà xa xót. Sông của mình, nước của mình mà không qua được. Có một cây cầu thôi dù là giằng sắt với ván gỗ - thì cũng là cầu, bỗng dưng hằn vết chém trên sông. Để lại nghìn trang tiểu thuyết, bút ký, thơ đoản khúc và trường ca, nhạc không lời và cả câu hò Quảng Trị, phim truyện rồi phim nhựa... Suốt gần hai thập kỷ đọc để mà buồn, xem để mà buồn, hát để mà buồn. Lịch sử nước nhà chép hai trăm năm tách lìa ngoài sông Gianh chưa đủ thấm buồn. Ghi chép thêm mấy chục năm chia cắt nữa ở sông này như thêm nốt nhấn buồn vào giao hưởng nghìn năm.

* * *

Cứ thấp thoáng chuyện kể của kỹ sư Giang dọc đường vào Quảng Trị. Tôi nhớ khúc thượng nguồn sông Bến Hải. Chổ có tên bờ là Hói Cụ. Năm 1966, tôi vào Nam lên đến đó vẫn như còn văng vẳng cái giọng chửi bới, hằn học phát ra từ nhũng cái loa cực lớn đặt ở phía Nam cầu. Nhưng trái tim hàng triệu, hàng triệu người Việt đập cùng bước lội lấp xấp qua sông. Sư đoàn tôi qua đầu tiên. Sư đoàn 325 đặt bản doanh ở phía Quán Hàu. Đủ nghi thức chào cờ điểm danh nhưng đã rục rịch vắng hụt dần quân số. Chỉ mấy tháng sau Hiệp định Giơnevơ, lính sư đoàn tôi lội từ bờ Bắc sang bờ Nam ở bến Hói Cụ này. Công binh rẽ lá mở đường, thông tin tìm đất đặt binh trạm. Đó là phân đội tiền trạm của cuộc chống Mỹ cứu nước vĩ đại. Ngày ấy họ vượt sông luồn rừng với kỹ luật tự giác "Ngồi không đấu, nấu không khói, nói không tiếng". Để bây giờ đội 1 của Công ty cầu 473 dựng lán, mở hiện trường từ bờ Nam sông. Sáng nào thợ cầu cũng bước qua dấu tích côt cờ cũ của ngụy Sài Gòn còn sót lại. Khác là bây giờ ngước lên thấy vòm trời "Rất xanh màu, Quảng Trị". Cái mảnh cờ ba que, vàng ệch, nhơ nhuốc cũ đã được trận gió lịch sử năm 1972 thổi giạt vào quên lãng mãi xa rồi.

Xe đã dừng. Tôi đã ngồi trước mặt anh đội trưởng thợ cầu Ngô Đức Vinh mà chuyện kể của kỹ sư Giang vẫn ấm áp như bè trầm của hành khúc giao thông thời ta sống.

Chuyện rằng: - "Anh Cảnh ơi, nghề bọn tôi nặng nhọc. Chúng tôi bị dồn tâm lực vào những tiêu chí khoa học nên ít được như các anh. Niềm xúc động chợt vụt lóe là đã tan chìm vào nhữn lời kêu gọi khẩn thiết bền chắc, chuẩn xác, vào những yêu cầu hối thúc về tiến độ, vốn, nắng mưa. Vậy mà suốt nửa đầu của ngày 7 tahngs 12 năm 1998, tôi đứng ngồi không yên. Giây phút cầu Hiền Lương nối khép đôi bờ cứ nhích đến gần. Chúng tôi sẽ làm mạch vào chổ đau của dòng sông. Vệc này đã làm một lần sau ngày giải phóng Quảng Trị. Nhưng lần này tạo độ bền vững dài lâu.

Ba giờ chiều một ngày cuối năm. Đang vào tiết Đông hàn nhưng trời Quảng Trị xanh ngăn ngắt. Không như cầu Gianh hợp long khúc giữa. Cầu Hiền Lương theo công nghệ đúc đẩy liên tục và điểm xuất phát từ bờ Nam. Công nghệ này của Nga mới sang ta. Cứ đúc rồi cứ đẩy một mạch từ bờ này sang bờ kia. Khi khúc thứ mười một đúc xong, thợ cầu đẩy sát toàn bộ cách phần bên bờ Bắc hai mét. Dừng lại đó mà chờ, mà chuẩn bị giây phút nối liền chiều nay. Anh Cảnh ơi, có một việc chuẩn bị hoàn toàn nằm ngoài quy trình công nghệ làm cầu cho chúng tôi ôn lại bài hát của Hoàng Hiệp "Bên ven bờ Hiền Lương. Chiều nay ra đứng trông về..."

Khi hai khối bê tông áp gắn với nhau, tôi quên mình là ai, đang ở vị thế nào trên công trình. Giang nói vậy. Tôi ngước lên nhìn đồng bào Quảng Trị. Tất cả ùa lên mặt cầu. Nước mắt và nụ cười tan nhòe vào màu cờ Tổ Quốc. Các cán bộ lão thành, những người đương nhiệm choàng ôm nhau, màu áo lính mài áo dân xoắn bện vào nhau. Hai vợ chồng chuyên gia Nga mang công nghệ đúc cầu này sang Hiền Lương, theo sát từng tiến độ làm cầu cũng lên mặt cầu mà ôm hôn nhau. Tây du lịch vai đeo ba lô, dừng xe ngắm nhìn, chia sẻ. Xe tải, xe khách dừng. Cả vùng sông ngưng lắng lại giây lát rồi ùa reo.

Tôi vốn là người làm xây dựng giao thông. Giang trầm gọi xuống, vậy mà có lúc tôi tưởng tôi là thi sĩ, nhạc sĩ gì đó. Cầu hiền Lương chịu cái vốn đầu tư mấy chục tỷ đồng. Nhưng vốn đầu tư xương máu to lớn vô cùng cả về khối lượng lẫn thời gian. Có đêm tôi nằm ở đây và nghĩ… không có cuộc đấu tranh quyết liệt đến thắng lợi cuối cùng thì hoặc là mãi mãi một cây cầu giằng thép , ván gỗ như suốt 18 năm chia cắt, hoặc là một cây cầu ngạo mạn vượt sang bờ Bắc như lời hô hét "Bắc tiến" của Ngô Đình Diệm ngày xưa. Vậy mà giờ là cầu của mình làm. Bốn mươi tỷ đồng là lời cổ vũ của nhân dân góp lại làm cầu qua sông Bến Hải. Công nghệ Nga và trí lực Việt nam. Nhận thức và ý chí của cả Tổng Công ty công trình giao thông 4. Công việc quản lý chặt chẽ của công ty 473 với sức mồ hôi mà đội thợ cầu 1 của Công ty đổ ra suốt mấy năm trời.

Chuyện kể của kỹ sư Nguyễn Minh Giang theo tôi vào đến chân cầu. Đợt gió mùa theo chân cũng đã ùn ùn mây mưa đến Hồ Xá. Cả vùng cầu chan hòa mưa rơi. Tôi thấy vui vui dù dưới đế giày đã bê bết một thứ bùn đất đỏ quạch của vùng này. Vì giống như làm nhà, bê tông đổ trần, đúc móng vừa khô se mà trời táng mưa là gia chủ có lộc. Vùng sông Bến Hải, vùng cầu Hiền Lương có lộc. Quý hơn ơn trời, lộc thánh là cây cầu hiện đại, bền vững. Quý hơn nữa là bấy nhiêu thợ cầu tôi gặp đều có niềm vui tự hào được xây dựng cây cầu lịch sử. Tôi bắt chuyện với một vài anh em đang hoàn thiện một vài chi tiết nhỏ cuối cùng trên thành cầu.

- Chào em. Em tên gì?

- Dạ Trần Phú Lượng.

- Vào đây từ bao giờ?

- Từ ngày khởi công, 15 tháng 6 năm 1995.

- Ở suốt đây à?

- Lẽ ra có thể hoàn tất sau ba mươi tháng.

- Sao đến bây giờ mới xong?

- Bác nên hỏi trên. Vốn về không đủ.

- Thời điểm nào đáng nhớ nhất ở công trình này?

- Mỗi ngày là một bài ca. Nhưng nhớ nhất là ngày đổ mẻ bê tông đầu tiên vào tháng 12 năm 1996. Đẩy khúc dầm số 1 tháng 5 năm 1997. Đẩy khúc cuối cùng tháng 12 năm 1998.

- Xong đây em đi đâu?

- Nơi nào Tổ Quốc cần. Anh thợ trử cười. Tôi không nhịn được, cười theo.

Thợ cầu Hiền Lương nói năng có bài có bản chặt chẽ như cán bộ văn hóa tư tưởng. Khác với hôm ở cầu Mẹt trên Lạng Sơn, một anh thợ đáp lại lời chào của tôi bằng một câu nhờ vả "Bác can thiệp giúp để công ty trả nốt lương cho chúng em". Tôi biết các cơ quan xây dựng giao thông ở vùng khu 4 cũ chuẩn bị cho thợ cầu đến những công trình như cầu Hiền Lương, cầu Nam Đàn khá kỹ. Trừ một thứ khốc liệt của đạn bom không còn. Mọi nỗi cam go còn đủ cả. Từ những cuộc trò chuyện với các anh Trần Đức Huy, Nguyễn Minh Giang ở Tổng Công ty 4 đến giám đốc Ban dự án miền Trung Nguyễn Ngọc Trân, các anh Phạm Hồng Chương giám đốc sở giao thông vận tải Nghệ An, Hoàng Xuân Tường giám đốc sở giao thông vận tải Hà Tĩnh… ở đâu tôi cũng gặp mối giao hòa, tình cảm thiêng liêng với một thời đánh giặc cam go, một thời lịch sử anh hùng. Ở đâu tôi cũng gặp mối liên kết bạn bè, đồng đội của một thời chưa xa. Dù bây giờ các anh từ trên xe sang trọng bước xuống. Dù bây giờ các anh trong bộ cánh nền nã đắt tiền. Dù bây giờ khi mở miệng giao tiếp là cụm từ triệu "đô" tỷ đồng. Không phải thợ cầu ở các công trình hiện nay đều là người kháng chiến cũ. Lý lịch các anh, các chị ấy không dính líu âm vang bom súng. Không từ dốc Bò Lăn, đèo Đá Đẽo, đường 15, 20 mà trưởng thành lên. Nhưng họ đang chung sống, cộng sự với những người tử tế của một thời oai hùng gửi lại.

Tôi ngồi lại với đội cầu 1 công ty 473 chốc lát để chia tay. Lán trại chỉ còn giữ lại để nghỉ tạm mươi ngày. Tôi hỏi đội trưởng Nguyễn Đức Vinh:

- Anh em đâu cả rồi?

- Ngoài Quán Hàu ạ. Tối nay, anh ra đó nghĩ sẽ gặp anh em.

Tôi nhớ một đoạn nữa trong chuyện kể của kỹ sư Nguyễn Minh Giang "Sẽ cắt băng khánh thành cầu Hiền Lương ngày 15 tháng 4 tới. Ngày trọng đại ấy sẽ rất vui nhưng vắng thợ cầu. Họ phải tiếp nhận công trình mới. Họ phải khảo sát, thiết kế. Thậm chí đã đóng cọc, lao dầm ở một cây cầu mới rồi. Khi anh vào Hiền Lương anh sẽ gặp thợ cầu Hiền Lương ở Quán Hàu dường như đông đủ.

Đêm Quán Hàu mưa to. Công trường đang ngổn ngang và cũng như đất khô hạn đoang thỏa thuê uống nhận mưa trời. Nếu không có điều đã hẹn vỡi kỹ sư Nguyễn Minh Giang ở Vinh, chắc tôi sẽ tách đoàn ở lại. Vả lại công việc ở Quán Hàu còn kéo lai rai, dài dài sang đến năm 2000. Tôi còn kịp quay về . Tôi ra đứng ở lan can nhà khách, trông sang bờ Nam sông Kiến Giang. Tất cả ngổn ngang này đang dầm trong mưa đêm hoang hút. Có lẽ đó cũng là hình ảnh năm năm trước ở bờ Nam cầu Hiền Lương. Tôi nhắm lại để nhìn rõ hơn. Những ngổn ngang này bỗng động đậy, dồn vén lại thành móng trụ, thành dầm, thành lan can rồi hợp tụ lại bóng dáng một cây cầu như một biến dạng mộng mơ, huyền ảo của chuyện thần tiên trong phim hoạt hình. Mưa đêm nay cho tôi liên tưởng đến giọt mồ hôi. Trong năm năm, dễ mồ hôi của trí lực, của thợ cầu Hiền Lương nhiều hơn mưa trời thả xuống. Và đó là kỷ niệm gửi lại vùng sông ấy…

                                                                                               P.N.C

Phạm Ngọc Cảnh
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 57 tháng 06/1999

Mới nhất

Quãng vắng quạnh quẽ

2 Giờ trước

Thêm áo quần đủ ấm, vợ lặng lẽ theo chồng ra chòi. Anh rắn rỏi, phong phanh, lảo đảo bước xuống chiếc xuồng. Đêm gần bờ sông trang gió, lạnh ùa tới quất từng cơn. Cái lạnh của miền Trung cứ ươn ướt, não nề.

Đồng cảm “Bốn mùa thương nhớ”

23/12/2024 lúc 17:07

Trong cuộc sống của con người thì sự ăn quan trọng vào bậc nhất. Cổ nhân có câu, dịch nghĩa ý rằng: Nước lấy dân làm trời, dân lấy ăn làm trời. Ăn không chỉ để sống, để tồn tại, để lao động, cống hiến mà còn là để khoái khẩu, để thưởng thức, suy ngẫm và trải nghiệm, đó là quan trọng như trải nghiệm ăn uống. Sự ăn không chỉ thỏa mãn đời sống vật dục tất yếu, bình thường và lành mạnh mà còn là văn hóa, hồn vía, là tâm tình, kỷ niệm, là da diết muôn vàn, đến nỗi một người Quảng Trị xa xứ như ký giả Nguyễn Linh Giang dường như cứ luôn mang mang tâm trạng hồi cố, hoài niệm theo Bốn mùa thương nhớ (tập tản văn, NXB Thanh Niên, 2024).

Ký ức chiến tranh trong truyện ngắn Văn Xương

23/12/2024 lúc 17:04

Văn Xương (tên thật Nguyễn Văn Bốn) không phải là một tác giả xuất hiện sớm và có thành tựu sáng tác nổi bật ở Việt Nam. Anh sinh năm 1959 và thuộc lớp những người cầm bút của thời kỳ đổi mới. Những truyện ngắn đầu tiên của anh được giới thiệu trên một số tạp chí, báo địa phương và trung ương khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã lùi xa.

Theo những bước quân hành

23/12/2024 lúc 17:00

Chủ đề người lính là một đề tài lớn, xuyên suốt trong dòng chảy văn học cách mạng Việt Nam và kéo dài đến hôm nay. Đó là một hiện thực khách quan bởi lịch sử đất nước gắn với trường kỳ kháng chiến; và khi xây dựng cuộc sống mới, thì người lính luôn là lực lượng xung kích đi đầu, đồng hành cùng nhân dân. Có thể hình dung sự vẻ vang ấy qua những tác phẩm trong tập sách Vang mãi khúc quân hành (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2024).

Nắng trên thành cổ; Người lính hát

23/12/2024 lúc 16:56

Nắng trên thành cổ Một rêu phong trên tường thành muôn năm cũMột nguyện cầu dài trong chấp chới tiếng chuông xaMột thanh xuân giữa ầm

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

28/12

25° - 27°

Mưa

29/12

24° - 26°

Mưa

30/12

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground