Lộ trình chúng tôi khởi đầu trên chiếc xe tốc hành Nam Bắc, từ Đông Hà ra Đồng Hới đã giữa trưa. Đáp thuyền máy ngược lên phía núi ba giờ gặp ga Đồng Lê và từ đây ì ạch thêm ba giờ nữa trên chiếc xe đò tuyến huyện mới đến được bản làng Thanh Long, Quy Hoà, Tuyên Hoá. Bản làng sơn cước Thanh Long tháng này, ban ngày sương mùa xuân mù toả, cảnh vật ảo ảnh bàng bạc mơ màng như trong tranh lụa. Và lạ chưa, vừa đặt chân đến nơi đã có trăng. Đêm nay và đêm mai nữa có đến hai lần trăng tròn trong tháng, tháng Hai tới sẽ là tháng không trăng. Nghe đâu những sáu mươi năm, tròn một hoa giáp mới có chu kỳ trăng nõn nà đặc biệt thế này. Người Nguồn gọi trăng đêm nay là vầng Trăng Sữa, đêm mai Trăng Trứng. Và còn bao nhiêu mùa trăng nữa trong năm, chao ôi, sao mà người Nguồn cảm nhận, biểu tượng, thi vị hoá và gọi tên đến là gợi cảm. Nào Trăng Dâu, Trăng Ngày Mùa, Trăng Lúa Gạo, Trăng Thợ Săn và có cả vầng Trăng Băng Giá mọc ra trước mùa Noel. Vầng trăng Sữa tựa tấm khăn voan bao la chầm chậm thả xuống thung lũng Thanh Long này bởi một gọng rớ vô hình nào đó của trời đất, thêm nữa thung lũng khăn voan thấm đẫm sương đêm, chợt giật thót như đã đi lạc vào dưới bầu sữa của tạo hoá thật. Chị con gái người Nguồn kia cùng đức ông chồng hoạ sĩ và tôi loanh quanh một hồi mới tìm ra nhà ông anh cả, ông Đinh Cầu nguyên trưởng phòng Văn hoá huyện vừa tròn bảy mươi. Cũng đúng thôi, hai mươi mấy năm chưa về còn gì? Chúng tôi được ông Cầu cho lót dạ, uống rượu cần sau một ngày đi đường vất vả mệt nhọc.
Thì ra có tộc người Nguồn khoảng bốn vạn dân sống tập trung ở hai huyện Minh Hoá và Tuyên Hoá này thật. Tự giác dân tộc, họ đều nhận mình là người dân tộc thiểu số, khác dân tộc Kinh. Họ có ngôn ngữ riêng, vốn văn hoá văn nghệ truyền thống riêng và phong tục tập quán cũng rất riêng. Chỉ lạ là trong danh mục các dân tộc thiểu số nước ta do Nhà nước công bố chưa thấy có dân tộc Nguồn- trong câu chuyện, ông Cầu tỏ ý thắc mắc. Khác với các dân tộc ở Trường Sơn Tây nguyên hay Pako, Vân Kiều, Tà Ôi miền Tây Quảng Trị, rượu cần người Nguồn đựng trong vò chứ không phải Ché. Chiếc vò như cái lu đựng nước thu nhỏ đủ kích cỡ đây là chiếc vò cổ do ông bà xưa để lại và vì vậy vò có ma vò, hồn ma. Lúc khiêng ra giữa sạp sàn, ông Cầu đã cắt sẵn tiết con gà, vừa lâm râm khấn vừa dùng bông gòn bôi thứ tiết sống kia vào quanh miệng vò, cúng cho ma vò. Nghe đâu trong những bộ áo váy cổ truyền cũng có ma, những lúc có việc đưa ra sử dụng cũng phải thực thi lễ cúng tương tự. Trước khi thiết đãi khách đường xa, mẹ Cầu với tư cách chủ nhà ra đứng chắp tay xá quanh rồi vít cần rượu uống trước. Sự uống rất là tượng trưng. Ngoài sự mời chào, tỏ tấm thịnh tình hiếu khách, chủ nhà muốn thông báo cho chúng tôi biết rằng trong vò rượu không có bùa mê thuốc lú. Và hơn thế nữa, thế giới đàn ông tộc người Nguồn qua đây đã có một cử chỉ đẹp, không phải "nịnh đầm" đâu mà tôn trọng vai trò của người phụ nữ trong gia đình, tàn dư của chế độ mẫu hệ đang song song tồn tại trong cộng đồng. Ông Cầu mời mọc, chuyển cần rượu vòng vo giữa ba chúng tôi theo nguyên tắc phân phối bình quân nhưng không phải vì thế luật chơi không nghiêm ngặt. Nghĩa là mỗi người có một cử uống, ông cứ thủng thẳng rả rích rót vào miệng vò một gáo bầu khô nước lả xấp xỉ một lít nước. Rả rích rót đến giọt nước cuối cùng trong gáo bầu khô kia vào miệng vò đồng nghĩa với việc anh đã uống xong cử rượu của anh, chuyển cần qua người khác. Trong chiếc vò kia chứa đựng hai mươi bơ nếp gần bảy chục lon đã được hông lên, trộn lẫn với vỏ trấu và men, cũng đã rả rích phân huỷ ra thành rượu từ mùa xuân năm trước và trước nữa. Rượu cất càng lâu càng quý, nồng dịu thơm ngon. Lại nữa, khi được hỏi: - Người Nguồn chưng rượu bằng men gì, Ba Đồn hay men Trung Quốc ? Ông Cầu lảy đảy lắc đầu. Cũng như đồng bào các dân tộc Trường sơn Tây nguyên, người Nguồn có men thứ thiệt của họ. Cứ uống rượu với người Nguồn đi, trăm năm, một ngàn năm nữa vẫn bổ cho cái dạ dày, sức khoẻ thể chất cũng như tinh thần của anh. Rượu đấy mà không đấy, nó khác mọi thứ rượu Tây, khác mọi chủng loại bia rượu đắt đỏ nhất thế giới hiện đại này. Bởi men người Nguồn cũng như các dân tộc Trường sơn Tây nguyên được chế tác ra từ mười chín loại rễ cây rừng. Tiếc là tôi chưa kịp ghi chép hết, mà có ghi tên người Nguồn ra đây cũng chưa thể đối chiếu, chỉ đích danh ra từng loài tên khoa học mười chín loại rễ cây này! Người Nguồn thế mà biết tích trữ cái thâm hậu của núi rừng, nhằm vào cái tháng, cái năm khô hạn nhất họ lần theo dấu chân loài nhím, gốc cây nào được các chú nhím đào trốc rễ lên để xơi thì rễ cây ấy là dược liệu được thu gom về quết giã ra vo viên với bột nước gạo cấy ủ thành men. Men ấy mới là men thứ thiệt, thật thà như bản tính của người phía Núi. Ở miền xuôi ta có thói quen gần như mê tín là chữa bệnh dạ dày bằng bao tử nhím. Nhưng mấy ai biết trong bao tử nhím kia chứa đựng đủ mười chín loại rễ cây là men rượu cần? Hay chỉ chữa bởi bao tử một trong những con nhím mắc bẫy trong mùa nương rẫy tốt tươi, chứa toàn sắn khoai bắp đậu thì phỗng có ích gì? Nhưng thôi, tôi không làm công việc của thầy thuốc Đông y, chỉ bàn sơ qua cách chế tác men rợu cần thô sơ "cổ lỗ xỉ" ấy để tiếc cho những ai chưa hề một lần được nhấp môi thứ rượu cần quý hiếm và vấn đề ở chỗ có nên đưa loại mỹ tửu này ra thết đãi đám đệ tử nát rượu của Lưu Linh không? Tôi cho là không! Vì bao nhiêu năm trời chung sống với người phía Núi, tôi chưa thấy một ai say xỉn bởi rượu cần. Thứ rượu sinh ra cho cả tộc người uống trên một nghĩa cử là "khắn vó", cố kết tình nghĩa giữa gia nương, gia tộc, dòng họ, cộng đồng. Rượu đấy mà không đấy- thi vị chưa? Bởi ba anh em chúng tôi bây giờ có thể là những ông tiên không biết tuổi, không còn biết đêm dài là gì nữa. Vít cong cần rượu mà nhâm nhi, nghiền ngẫm; đếm thời gian tưng tửng qua từng chuỗi giọt nước suối rừng tẻ ra từ miệng gáo bầu khô, ăm ắp miệng vò và sâu thẳm từ tận đáy vò kia vút ngược lên cần thấm tháp miệng ta từng giọt từng giọt, ẩn hiện trước mặt ta có cả ma vò. Ma đấy - mà cũng là tổ tông đấy, truyền thống đấy, bản sắc dân tộc đấy; quá khứ hiện nguyên hình song hành cùng hiện tại. Chao ôi là men say cội nguồn - hay chính nó cũng là đạo lý uống nước nhớ nguồn! Và ở tộc người Nguồn thì đạo lý ấy nhìn vào đâu cũng thấy…
Ở Thanh Long, Quy Hoá, Tuyên Hóa này còn giữ rất nhiều tập tục lạ. Một trong những tập quán phô phang ra cùng kiệt tấm lòng thơm thảo, ấy là lúc tất cả những đứa con gái con trai đã có gia thất cử này hàng năm lũ lượt quay về báo hiếu, ghi công dưỡng dục sinh thành của bố mẹ, người đã nặn nuôi mình khôn lớn nên người. Người Nguồn gọi tên là "chỗ sôống", nghĩa là tổ chức “đám giỗ” cho bố mẹ giữa lúc còn sống, gọi hẵn tên là giỗ sống chứ không phải là lễ mừng thượng thọ ở người Kinh. Triết lý người Nguồn chân chất, yêu thương có phải là cho bố mẹ hưởng thụ, ăn uống ngay khi còn sống, còn hơn là "khi sống thì chẳng cho ăn, đến khi chết xuống làm văn tế ruồi"! Đối với những gia đình đông con, đông dâu rể như gia đình chị Đá tôi thường phải có những cuộc hiệp thương từ cuối tháng mười một Âm lịch. Mục đích không ngoài việc thống nhất một cái lịch giỗ sống cho bố mẹ hợp lý, tránh tình trạng chồng chéo lên nhau. Lịch thuần tuý là sắp xếp thời gian nhưng lịch cũng chiếu cố đến hoàn cảnh riêng từng thành viên dâu rể trong gia đình. Ai có khả năng, chuẩn bị sẵn rồi thì làm trước, ai khó khăn làm sau không phải theo một trình tự lớp lang có sẵn nào. Từ tối đến giờ, chị Đá tôi lộ nguyên hình là cô gái Nguồn, ra vào nhanh như con sóc, cũng chỉ mới hiệp thương bàn bạc xong với bảy cặp chị em dâu rể kể cả vợ chồng ông anh cả, ông Cầu để có cái lịch sáng sớm mai làm giỗ sống trước cho bố mẹ. Chị là người ở xa lại lâu năm mới về, đương nhiên là được chiếu cố, ưu tiên một. Chừng ấy đã là niềm vui, nhưng tròn trịa nhất, hạnh phúc nhất vẫn là lúc tự tay mình đồ xôi, làm gà, sửa soạn mâm cổ ẩm thực ngon nhất, hợp khẩu vị nhất để trình lên bố mẹ. Chị nhất khoát không để ai xen vào, kể cả đức ông chồng hoạ sĩ. Chao ôi, trước ngọn lửa hồng, dưới suối tóc dài óng ả đổ xuống bờ vai thon thả kia là đôi mắt hình hạnh nhân rực rỡ không ngừng chớp rạng dưới hai hàng mi thẩm đen biêng biếc. Nết người nết đất và nết đẹp ở chỗ không phải món ăn nhiều hay ít, sang trọng hay không sang trọng mà cái chính là hợp khẩu vị, cái chị đã biết tỏng tòng tong là ngày thường bố mẹ mình thích.
Hằng năm, giỗ sống bắt đầu tiến hành từ đầu tháng Chạp Âm lịch và khoá sổ, giới hạn cuối cùng vào ngày hai nhăm. Sau đó mọi người chuẩn bị việc đón tết riêng tây trong từng tiểu gia đình. Người Nguồn làm cái công việc giỗ sống bố mẹ với một mục đích cụ thể nhưng với cộng đồng thì đông vui, thác lũ như ngày hội tết. Với tục lệ này, từ sáng tinh mơ, bản làng Thanh Long là cả một cảnh tượng nhộn nhịp. Kẻ đội mâm, ngời bưng cỗ ngợc xuôi, già có trẻ có. Con cái bao gồm cả vợ chồng ông Cầu bảy mươi tuổi chứ không riêng gì những cặp vợ chồng dâu rể bốn mươi như chị Đá tôi, hoặc nhỏ hơn mười tám đôi mơi. Chúng tôi phân công nhau bưng mâm oản cỗ. Có đủ thức ăn của ngày thường, ngày tết như cơm xôi, cá thịt, canh rau, đủ loại bánh trái. Chú rể khệ nệ khiêng đi một vò rượu cần. Và bây giờ con cái vây quanh nhìn bố mẹ, ông bà xếp chân chữ ngũ trên chiếu nan hoa trải trên sạp sàn, như hai vị thánh thời cơm. Bố mẹ, ông bà ăn nhiều không, ngon miệng không ấy mới là niềm hạnh phúc lớn lao đối với tất cả con cháu. Bố mẹ có khoẻ, có vui mới ăn được nhiều và vì vậy chị Đá tôi là người vui nhất. Khi hai vị thánh, ông bà tiên kia vít cong cần rượu do người con rể quỳ bên thủng thẳng rả rích rót vào miệng vò từng giọt nước suối rừng thì cũng là lúc chị Đá tôi vòng tay đứng bên báo cáo công việc làm ăn, thực ra là bao nhiêu năm trời với bố mẹ, rằng “…vợ chồng con khổ cực đùm bọc yêu thương nhau, nào dạy học rồi buôn bán ngược xuôi, nào sinh con đẻ cái, các cháu học hành, năm rồi chồng con nhận được bao mối hàng quảng cáo, đưa được bao bức tranh đi dự triển lãm nghệ thuật..." Và đây cũng là dịp vợ chồng chăm chú lắng nghe những lời khuyên bảo dặn dò ân cần chu đáo của bố mẹ.
Cuộc tế lễ nào, dẫu là tế sống, giỗ sống mà không kết thúc. Tôi thật bất ngờ, lúc kết thúc, cũng là lúc anh chị tôi sụp xuống lạy sống bố mẹ mình, năm lạy. Khổ ải cha, trần ai chưa và cảm động chưa? Có tập quán tộc người nào trên trái đất này giáo dục con cái mình bằng một hành vi cụ thể, cội rễ mà thánh thiện như tộc người Nguồn? Mùa Phật Đản, Vu Lan, tôi có đến chùa dâng hương đãnh lễ Phật báo hiếu mẹ cha; và thi thoảng về làng lạy ông lạy bà trong dịp giỗ tết với tư cách là thằng cháu đích tôn. Những tưởng mình đã là thằng người có đạo đức, thế mà... Trong đời anh đã một lần vinh hạnh được phủ phục xuống đất lạy sống bố mẹ mình chưa? Tôi biết là chưa. Thế mà người Nguồn có giỗ sống rồi lạy sống bố mẹ mình vừa rất cụ thể vừa rất thánh thiện. Đã quá muộn mằn rồi chăng, vì hơn nửa đời người bây giờ chúng tôi mới được mục kích bắt gặp.
Ôi mùa xuân! Có một mùa xuân để chúng ta được về nguồn. Tôi nôn nóng thảng thốt quay về, những muốn phong kín ngay ngôi nhà ở phố đưa vợ con đi làm "giỗ sống" cho ông bà bên nội bên ngoại. Thì ra cội nguồn chỉ có thế ! Tôi nghĩ không ai có thể khéo léo hơn trong việc dạy dỗ các thế hệ con cháu của mình bài học về cội và nguồn cụ thể giản đơn và sâu thẳm như người Nguồn. Cuộc sống bao giờ cũng có cái biến và bất biến; cái mới và cái vĩnh hằng đan xen. Chúng ta hối hả đi về phía trước, phía hiện đại và càng hiện đại bao nhiêu thì hãy đừng bao giờ quên ở những tầng sâu văn hoá bao giờ cha ông ta cũng lưu giữ và biết cách luân chuyển những giá trị văn hiến có tự nghìn đời của dân tộc.
Tuyªn Ho¸ - §«ng Hµ xu©n Kû M·o 1999
Y.T