Con đường thơ của Chế Lan Viên kéo dài 54 năm và đã khép lại nhưng không có nghĩa là kết thúc. Nó vẫn tiếp tục toả phát, đồng hành cùng thi ca dân tộc. Trong từng giai đoạn, Chế Lan Viên luôn năng động trong tư duy, luôn nghĩ về nghề, nghĩ về thơ để tìm cho mình một quan niệm, một tuyên ngôn riêng. Những quan niệm nghệ thuật của ông thể hiện rõ kiểu “tư duy triết học biện chứng” có phủ định, kế thừa và sáng tạo mới cho phù hợp với tinh thần thời đại và quy luật nội tại của thi ca.
Sự phức tạp trong tư duy và quan niệm về thơ của Chế Lan Viên chính là một nghịch lý hợp lý, chứng tỏ ông là một thi sĩ có tài, chưa bao giờ tự bằng lòng, thoả mãn với những gì đã có. Ông luôn tìm tòi, thể nghiệm để khẳng định cái mới thực sự có ý nghĩa đối với nền thơ Việt hiện đại cả lý luận và thực tiễn.
ĐIỀU TÀN: MỘT NIỀM KINH DỊ, MỘT QUAN NIỆM THƠ
Trong phong trào thơ mới 1932-1945, Chế Lan Viên là thi sĩ trẻ, xuất hiện muộn nhưng họ mang về hào quang lạ mà Hoài Thanh phải ngỡ ngàng thốt lên: “Quyển Điêu tàn đã đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt
Cơ sở xã hội và cơ sở tư tưởng của Chế Lan Viên thời này đã rõ. Hoàn cảnh đất nước bị nô lệ. Ông sống trên đất cũ của vương quốc Chiêm Thành. Lúng túng trong tư tưởng và hành động buộc ông phải đến với tôn giáo. Lúc đầu là Phật, sau là Thiên chúa. Màu sắc siêu hình, hư vô của Điêu tàn chính là xuất phát từ cơ sở này. Về phương diện thi ca mà nói, Chế Lan Viên đã đi tìm và sáng tạo nên nét dị thường, khác với không khí tình yêu, mơ mộng của các thi sĩ cùng thời. Hình ảnh trong Điêu tàn là cả một thế giới rùng rợn: đầu lâu, sọ dừa, hồn ma, quỹ dữ… Qua các hình ảnh ấy, ông trải lòng và cảm xúc của mình trước niềm đau đã trở thành tro bụi của nước non Hời.
Tạo hoá hỡi ! Trả tôi về Chiêm quốc
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chán mắt
Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ điêu tàn
Nỗi đau của nước non Chiêm cũng là nỗi đau của nuớc non mình. “Điêu tàn có riêng gì cho nước non Chiêm Thành yêu mến của tôi đâu? Kìa, kìa, nó đang đục sọ dừa anh. Tiếng xương rạn vỡ dội thấu đáy hồn tôi”. Nỗi chán đời tuyệt vọng hơi quá đáng biểu hiện bằng những hình ảnh kinh hãi nhưng đó cũng là một thái độ phản ứng với sự nhàm tẻ của thực tại. Người thơ trẻ tuổi Chế Lan Viên biết bấu víu vào đâu? Chính mảnh đất siêu hình kia là nơi thuận lợi nhất để tác giả gửi gắm tâm sự, bằng cách làm sống lại quá khứ nước Chàm qua hư cấu, tưởng tượng kỳ lạ “để nếm lại cả một thời xưa cũ – Cả một dòng năm tháng đã trôi qua”. Đó là cách để giải thoát. Giải thoát mà vẫn đau đáu về cuộc đời. Đó là trạng thái lưỡng phân của Chế Lan Viên. Và may thay, nó biến thành nghệ thuật, thành một quan niệm mỹ học. Điều cần lưu ý ở Điêu tàn để làm tiền đề cho việc nghiên cứu thơ Chế Lan Viên ở các giai đoạn sau, đó là việc thiết lập mối quan hệ có tính sinh tử của nghệ thuật. Mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và khách thể thẩm mỹ. Hai câu hỏi: “Ta là ai? Ta vì ai? Sau này của ông chính là xuất phát từ tiền đề này. Cho nên Điêu tàn tuy rùng rợn, siêu hình nhưng thật ra là biện chứng. Nói quá khứ cũng là cách để khẳng định hiện tại và mơ ước đến tương lai.
Vậy quan điểm nghệ thuật của Chế Lan Viên trong Điêu tàn, đặt trong mối quan hệ chủ thể - khách thể là gì? Đó là một chủ thể quái đản, cực đoan, thần bí và một khách thể tưởng tượng, hư cấu, siêu hình. Không xem đây là một quan niệm nghệ thuật, chúng ta sẽ không thể lý giải được sự chuyển biến quan niệm của Chế Lan Viên ở các giai đoạn sau. Hoài Thanh từng ca ngợi Điêu tàn là “một niềm kinh dị” thì rõ ràng nó đã là tác phẩm quý giá. “Giữa đồng bằng văn học Việt
Khi cuộc sống thay đổi, quan niệm thơ của Chế Lan Viên cũng thay đổi theo. Và dưới ánh sáng văn nghệ mới của Đảng, những quan niệm về thơ của ông có dịp khẳng định tính độc đáo, mới mẻ của mình.
TỪ VÀNG SAO HƯ VÔ ĐẾN SAO VÀNG CÁCH MẠNG
Từ 1945 đến 1975 là thời kỳ sôi động nhất của lịch sử dân tộc Việt
Đến Ánh sáng và phù sa (1966), Chế Lan Viên thực sự có bước chuyển biến bất ngờ với mối quan niệm mới, đánh dấu sự cách tân quan trọng không chỉ riêng ông mà còn cho cả nền thơ Việt hiện đại. Sau này, trong các tập thơ Hoa ngày thường, Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), cả các tập được in sau 1975 nhưng chủ yếu sáng tác trước 1975 như Hoa trước lăng Người (1976), Ngày vĩ đại (1975), Hái theo mùa (1977) đều thống nhất một cảm hứng, một quan niệm đã có từ Ánh sáng và phù sa.Thơ phải gắn với cuộc sống, Nhân dân, với lý tưởng cách mạng và Đảng. Đó là sự chuyển biến dứt khoát, mãnh liệt của ông để chuyển từ siêu hình, bế tắc sang thơ ca hiện đại, cách mạng. Hai câu hỏi như một tuyên ngôn nghệ thuật.
Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
Ta vì ai? Sẽ xoay chiều ngọn bấc
Bàn tay người thắp lại trịêu chồi xuân
Đó chính là quá trình vật vã, day dứt để tìm cách thể hiện mới cho thơ của một nghệ sĩ “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”, “từ chân trời một người đến chân trời tất cả”. Đây cũng là quá trình chung của nhiều nghệ sĩ khác nhưng ở Chế lan viên bức bách, quyết liệt hơn cả. Bài “Nghĩ về thơ” chính là triển khai cụ thể quan niệm trên bằng thơ một cách tập trung. Đến “Nghoảnh lại mười lăm năm”, “Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ …” thì những quan niệm trên đã sáng rõ. Nhân cách công dân- Nghệ sĩ của Chế lan Viên cũng hình thành, đủ sức định hướng nghệ thuật cho hành trình dài về sau”Ánh sáng soi rọi tôi và phù sa bồi đắp tôi. Ánh sáng tinh thần và phù sa vật chất của lý tưởng tôi” trở thành cảm hứng chủ đạo của Chế Lan viên trong giai đoạn này. Mối quan hệ chủ thể - khách thể, vì vậy càng triệt để, hiệu quả hơn.
Con gặp lại Nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
“Nội dung mang tính quan niệm, mang tính hình thức” cũng được Chế Lan Viên đề ra từ rất sớm “Hình thức cũng là vũ khí - Sắc đẹp của câu thơ cũng đấu tranh cho chân lý”. Thơ phải bao chứa tất cả hiện thực lớn lao của cuộc sống cách mạng, của lịch sử. Đây là một quan niệm phù hợp với nền thơ cách mạng.
Thơ cần có ích
Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi
“Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng”, “Những bài thơ đánh giặc”, “Thời sự hè 72 - Bình luận”, “Văn xuôi về một vùng thơ”, “Thơ bình phương, đời lập phương”… đã tiến xa thêm một bước thể hiện sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, dù có lúc “Cái tinh tuý cỏ hoa tạm thời chưa nghĩ đến”. Quan niệm về hình thức được Chế Lan Viên đề ra nghiêm ngặt, coi đây là một phẩm chất quan trọng trong việc chuyển tải nội dung. Và hình thức, theo ông, cũng không phải nhất thành bất biến mà vô cùng phong phú “Nội dung bể phải đâu muôn đời vẫn thế -Thay hình thức của thuyền đi sẽ hiểu bể thêm mà”.
Những lá thơm hái lúc về già
Hái những lá có hương tư tưởng
Khi cây đã hoá trầm trong ruột
Lá đủ rồi, phải đợi gì hoa
Sự thống nhất hình thức – nội dung này lại được đạt trong mối quan hệ có tính cấp thiết nữa. Đó là: Kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc và quốc tế; giữa truyền thống và cách tân với những phẩm chất đích thực “ta nối liền ta trong bề dọc thời gian – Câu thơ thế kỷ 20 liền hơi với hồn cha ông trong truyện Kiều, Chinh phụ”.
Đó là những quan niệm nghệ thuật quán xuyến của Chế lan Viên trong suốt thời gian dài, kể cả sau 1975.
NHỮNG LÁ THƠM HÁI LÚC VỀ GIÀ
Căn cứ ở quan niệm thơ và thực tiễn sáng tác, từ 1975 đến cuối đời, có thể coi là chặng hành trình thứ ba của cuộc đời nghệ thuật Chế Lan Viên. Đặc biệt với Di cảo thơ (3 tập), Chế Lan Viên đã làm cho chúng ta kinh ngạc, khâm phục không chỉ ở số lượng tác phẩm mà còn là những quan niệm nghệ thuật mới, thoạt nhìn tưởng như trái ngược với trước đó.
Sự đa dạng trong bút pháp, đề tài, chủ đề được ông hướng về nhều lối rẽ khác nhau là điều dễ thấy của thơ ông giai đoạn này. Thế sự - đời tư – đạo đức được tăng cường. Chất trí tuệ càng cô đúc và có những khái quát nghệ thuật bất ngờ. Tập “hoa trên đá” (1984) tuy còn giữ giọng điệu cũ ở nhiều bài nhưng nhìn chung, nhu cầu ca hát về mình, những riêng tư gắn với việc triết luận về cuộc sống đã thành nội dung chủ đạo, phù hợp với sở trường của ông. Đến “Ta gửi cho mình” (1986) và “Di cảo thơ”(3 tập 1992, 1993, 1996), Chế Lan Viên nghiêng hẵn về nội dung Đời tư- Thế sự - đạo đức. “Cái tinh tuý cỏ hoa” giờ đây được tăng cường như một nhu cầu bù đắp. Mối quan hệ giữa chủ thể-khách thể đã có sự vận động. Chế Lan Viên luôn triết lý, tổng kết về những vấn đề có liên quan đến con người cá nhân, những quy luật vĩnh hằng của cuộc sống…
Bỏ những tấm lòng đã yên đã cũ
Mở những hồn thơ, chưa thấy, chưa trông
Từ giọng cao của giai đoạn trước, ông chuyển sang giọng trầm và bắt nhịp một cách tinh tế. Bài Đề tài, Trong hồn … nói lên những quan niệm mới. Sống chết; Lao động sáng tạo; Thời gian sống đời người, Thời gian vĩnh hằng… được tác giả chiêm nghiệm đến cạn kiệt và thể hiện bằng thơ trong trạng thái bệnh tật, già yếu nên có pha chút xa xót, tủi buồn. Nỗi xa xót, tủi buồn, luyến tiếc của một người sắp xa trần thế để về xứ không màu. Đó cũng là thái độ, lòng khao khát yêu đời, mong thơ ca mình luôn có ích.
Chế Lan Viên da diết đi tìm Cái đẹp bằng cách soi vào chính mình, tìm ra các mặt phân hoá, đối lập, tạo ra những phủ định của phủ định. Thơ ông mang nỗi đau triết học. Và bên sau nỗi đau ấy, cái mới hiện hình
Anh là tháp Bay - on bốn mặt
Giấu đi ba còn lại đó là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình
Ở giai đoạn cuối đời, Chế Lan viên cũng có những thay đổi về hình thức. Ông nghĩ nhiều về một phương thức biểu hiện mới cho thơ. Ông tiết kiệm hơn, chuộng ngắn mà tinh.
Nhân loại đi xa chớ có vẽ bày
Từ ngữ kềnh càng văn chương vô lối
Cả đời anh, anh thu nhỏ lại
Chỉ còn cái lõi
Cho nhân loại mang cùng, nhân loại cầm tay
Chính “cái lõi’ ấy mà suốt đời Chế Lan Viên cần mẫn đi tìm và thấy mình có lỗi với thi ca. “Thơ thế kỷ 21 mà – làm sao có thể hồn nhiên - Sau hai nghìn năm tìm tòi, phá phách”. Ông nhìn cuộc đời vẫn bằng tấm lòng nhân hậu và thiết tha mong nền thi ca dân tộc tiến lên bằng nhiều phong cách lạ
Khi anh gần chạng vạng
Thì có người bình minh
Đừng lấy hoàng hôn anh ngăn cản
Ban mai của họ sinh thành
***
Dĩ nhiên, quan niệm thi ca của Chế Lan Viên có mặt này, mặt khác, thoạt nhìn tưởng mâu thuẫn nhau. Và thực tế có nhiều cách hiểu, đánh giá khác nhau về những bài thơ cuối đời của Chế Lan viên. Thực ra, vấn đề không đến nỗi phức tạp như thế. Sự phong phú, khó nhận biết ở thơ ông chính là những mâu thuẫn, những nghịch lý hợp lý biện chứng của một tư duy triết học, được thể hiện bằng ngôn ngữ thơ đa dạng, bằng hình ảnh và các phương thức tu từ đặc sắc nên tạo ra nhiều nghĩa, nhiều lớp liên tưởng trong người đọc. Điều này làm cho quá trình đánh giá về thơ cũng như về quan niệm thơ của Chế Lan Viên trở nên cấp thiết và có ý nghĩa về lý luận thực tiễn sáng tạo.
Đông Hà,16.8.1997
H.T.H.