* Quốc hội, luật pháp và những nghị sĩ
T |
ọa lạc giữa trung tâm Thủ đô Oa-sinh-tơn và được bao bọc bởi những dãy phố rợp bóng cây xanh là một toà nhà lộng lẫy kiến trúc theo kiểu cung điện có vòm lớn hình củ hành với chóp nhọn chọc thẳng lên trời. Chính cái "củ hành" khổng lồ này là biểu tượng quyền uy và vẽ đẹp nước Mỹ. Bên phải vòm tròn cung điện ấy (nhìn từ ngoài vào) là toà Thượng viện. Bên trái là Hạ viện. Tuy nhiên như đã nói, Quốc hội Mỹ không phải chỉ có chừng ấy nhà. Đoàn chúng tôi không đi hết các toà nhà ấy. Chúng tôi phải gặp cả thảy là 11 vị Nghị sĩ nhưng quay lui quay tới cũng chỉ 2 tòa Thượng viện và 2 tòa Hạ viện.
Bên ngoài từng toà nhà có khác nhau, nhưng bên trong thì tất cả cùng một kiểu kiến trúc. Một lối chính đi vào, qua cửa kiểm tra an ninh bằng các thiết bị dò xét kim loại như kiểu đi vào sân bay. Qua khỏi chỗ đó là một sảnh lớn hình tròn, úp lên nó là một vòm cao lồng lộng được trang trí thật tráng lệ. Từ sảnh lớn ấy chia ra rất nhiều hành lang xòe đi khắp nhà, lại có thang máy xuống tầng hầm và lên các tầng trên. Hành lang đi bộ chỉ rộng khoảng 4 mét, hai bên là cửa để đi vào các phòng làm việc của các Nghị sĩ. Trước cửa mỗi phòng cắm hai lá cờ: một cờ nước Mỹ, một cờ của bang ông Nghị sĩ. Văn phòng của một Nghị sĩ rất chật chội, ngoài cùng là chỗ ngồi của 2 nhân viên kiểu văn thư hành chính, phòng liền đó là Thư kí và Trợ lí pháp luật. Đến đó mới có cánh cửa để ngăn cách với phòng ông Nghị.
Có gì lạ trong tòa nhà Quốc hội Mỹ?
Theo tôi, có rất nhiều chuyện lạ. Đương nhiên, nói lạ là lạ với cách nghĩ của tôi, lạ so với cách ứng xử Việt Nam mình, còn với họ dĩ nhiên là nó vốn thế, chẳng có gì ngạc nhiên cả.
Cái lạ thứ nhất là, nhà Quốc hội nhưng ai vào cũng được, người vào kẻ ra cứ tấp nập như đi chợ. Con gái, con trai, trẻ em, người lớn, ăn mặc nhôm nhoam, dày dép lộn xộn, cười nói vui vẻ. Cái chốt canh ở lối vào chỉ kiểm tra an ninh cực kì chặt chẽ với bất kì ai, nhưng lại tuyệt nhiên không hỏi anh chị là ai, vào đây có vịêc gì? Ở trong tòa nhà có đầy đủ phòng ăn, giải khát. Các Nghị sĩ được quy định ăn một gian riêng, khách tự do thì ăn ở gian liền kề. Lại có nhiều quầy bán hàng lưu niệm. Hình như quan niệm của người Mỹ là, một công trình kiến trúc đẹp thế này là tài sản của toàn dân, ai cũng có quyền tận hưởng, mỗi ông Nghị chỉ được phân cho một phòng chật hẹp mà thôi!
Sự lạ thứ hai là, dọc hành lang đi qua các phòng của các Nghị sĩ, thỉnh thoảng chúng tôi lại nhìn thấy một tấm bảng mê-ca dựng bên tường, tấm bảng nào cũng ghi đậm một nội dung như sau: Nước Mỹ nợ 7.796.000 tỉUSD, mỗi người dân Mỹ phải chịu nợ 26.000USD. Tôi hỏi Pôn- trợ lí pháp luật của VVMF : Này, tại sao lại cứ dựng liên tục các tấm bảng này trong phòng các Nghị sĩ? Pôn nhún vai: Là để cho các ông ấy ghi nhớ mình ngồi vào đây để là gì!
Vào văn phòng của từng Nghị sĩ tôi lại phái hiện thêm điều lạ nữa, cả bốn nhân viên giúp việc trong văn phòng là do vị Nghị sĩ ấy tự thuê, quan hệ của họ là quan hệ chủ tớ. Như vậy nhà nước Mỹ chỉ biết đến ông Nghị sĩ, còn nhân viên giúp việc thuộc quyền của ông ta. Chuyện này thật khác xa ta.
Điều lạ cuối cùng là bức tượng toàn thân của một vị Nghị sĩ được đặt tại sảnh lớn của một tòa Thượng viện. Tòa nhà ấy cũng được đặt tên vị Nghị sĩ này. Hỏi ra mới biết vị này có thâm niên đặc biệt, 38 năm liền trúng cử Thượng Nghị sĩ. Nó lạ ở chỗ, toàn thành phố Oa-sinh-tơn không có một đường phố nào đặt tên các danh nhân hay các lãnh tụ chính trị. Họ chỉ suy tôn duy nhất ông Tổng thống Oa-sinh-tơn. Tượng đài tôn vinh ông chỉ là hình con số 1 cao ngất ngưởng, ý nghĩa của nó nói đây là người công dân số 1, vị Tổng thống số 1...Đường phố Oa-sinh-tơn từ đông sang tây đặt theo thứ tự 1,2,3,4...Từ nam lên bắc lại đặt theo A,B,C,D.... Kể ra cũng thật tiện lợi khi tìm kiếm. Đúng là tư duy thực dụng kiểu Mỹ. Hơn nữa lại đỡ tranh luận, thắc mắc tên tuổi ai xứng đáng hơn ai. Thế mà lại có một vị Nghị sĩ, chỉ là Nghị sĩ thôi, lại được đặt tên cho một tòa lâu đài Quốc hội, lại được đúc tượng toàn thân đứng lừng lững một mình ở vị trí trang trọng nhất, lộng lẫy nhất trong toà nhà quyền lực ấy?
Tôi đã biết trước rằng, trong Quốc hội Mỹ lực lượng không ủng hộ Việt Nam vẫn còn nhiều, thậm chí có một số chống đối gay gắt. Tôi đã chuẩn bị cho mình chuyện này. Tuy nhiên tất cả những vị tôi gặp lại có thái độ rất khác. Họ tiếp cởi mở, lắng nghe chăm chú, đôi lúc còn tròn xoe mắt tỏ vẻ ngạc nhiên... Tất cả những ý kiến mà đoàn Vịêt Nam và VVMF đề xuất về việc tiếp tục mở rộng dụ án Renew ở Quảng Trị đều được họ bày tỏ sự ủng hộ một cách nhiệt thành. Tôi hỏi riêng Chăk: Này, tôi hỏi thật nhé, cái cách Oke nhiệt tình của các vị ấy có thật lòng không ? Chăk trả lời ngay: sao lại không , họ sợ gì mà phải nói lấy lòng. Rồi ông giả thich thêm, người Mỹ là thế, ngoại trừ ngôn ngữ ngoại giao ở cấp Chính phủ ra, còn như trường hợp của chúng ta , nếu không đồng tình họ lắc đầu ngay, thậm chí họ không tiếp nữa. Nhân chuyện này Chăk thổ lộ tâm sự: Người dân Mỹ, ngay cả nhiều người trong giới chức Mỹ rất có cảm tình với Việt Nam. Vẫn thừa nhận rằng, số không ủng hộ vẫn còn đông, nhưng trong số đó, không phải ai cũng vì hận thù. Một số rất đông trong đó họ không có thông tin. Họ không hiểu Việt Nam bây giờ là thế nào. Ngay cộng đồng người Việt cũng vậy, số cay cú hằn học ít thôi, số đông còn lại chưa ủng hộ quê hương hoặc là do thơ ơ, hoặc là do bị xuyên tạc tình hình. Cho nên tôi đã có lần nói với một số nhà lãnh đạo Việt Nam rằng, cần thiết phải có một lực lượng thuyết khách trên đất Mỹ. Họ phải là những người Mỹ hiểu Việt Nam, họ nó giới chức Mỹ sẽ hiểu và tin hơn là lời mấy ông Đại sứ. Sở dĩ Itsraen lấy được lòng chính phủ Mỹ cũng nhờ vào lực lượng thuyết khách này.
Tôi chia sẻ cách nghĩ này của Chăk. Ở Mỹ vai trò người thuyết khách đặc biệt quan trọng. Đó cũng là nét lạ của luật pháp Mỹ. "Người thuyết khách" chính là trợ lí pháp luật, hay còn gọi là người đại diện, người phát ngôn. Thân chủ của họ là cá nhân, là một tổ chúc, là một cấp, một bộ phận nào đó... Pôn là trợ lí pháp luật và cũng là nhà "thuyết khách" của tổ chức VVMF. Luật pháp Mỹ tôn trọng sự hiện diện của họ trong mọi hoạt động xã hội. Ví dụ một cá nhân nào đó có quyền không trả lời cảnh sát hoặc cơ quan điều tra nếu chưa có mặt người đại diện. Mọi giao dịch dân sự đều phải thông qua người đại diện, không có họ coi như chưa có hiệu lực. Có lẽ đây cũng là ý hay gợi cho ta thêm một cách tiếp cận nước Mỹ.
* Hành khúc ngày và đêm
7 giờ tối tôi đi tìm một máy điện thoại công cộng để gọi điện về nhà. Nghĩ cũng sướng, cảm ơn thời đại của công nghệ viễn thông. Nhớ lại ngày đi học ở Matscova cách đây gần 25 năm, xa quê đằng đẵng trong bối cảch gia đình rất khó khăn nhưng không có cách gì nhắn tin về hoặc hỏi han tình hình được. Còn bây giờ, xa nhà đúng nửa vòng trái đất, tính về múi giờ thì xa gấp đôi so với Matscova, nhưng chỉ cần bỏ ra 5 đô(chưa bằng hai quả chuối), ngồi ở Oa-sinh-tơn tôi đã có thể nói chuyện với gia đình hơn 10 phút. Gọi điện vào lúc 7 giờ tối, có nghĩa là bên nhà 6 giờ sáng. Tôi vừa trải qua một ngày nhịn đói và phờ phạc vì chương trình công việc được lập trình một cách khắc nghiệt thì tôi biết chắc rằng ở bên Quảng Trị người nhà tôi vừa trải qua một đêm gió lào và khô hạn. Kể từ khi lên máy bay ở Nội Bài bay qua Narita của Tokio rồi lại ê chề ngồi máy bay 12 tiếng nữa mới xuống được Dalat, bay thêm 2 tiếng nữa mới về tới Pitsbơt. Cả bay cả ngồi chờ hết 32 giờ. Trong vòng 32 tiếng đó, chúng tôi đã bị lộn tùng phèo về khái niệm ngày đêm. Tôi vẫn để đồng hồ theo giờ Việt Nam, còn Phôi và Hùng lấy đồng hồ theo giờ Mỹ. Bây giờ thì phải quen với cách nghĩ này. Ở đây ngày thì bên nhà là đêm. Đồng hồ tôi đêm thì đồnghồ của Phôi là ngày....
Tôi và hai anh bạn trẻ đi cùng thuộc hai thế hệ khác nhau. Chúng tôi có chung một nhiệm vụ. Tuy nhiên xét về nhiều khía cạnh chúng tôi có chỗ không hoàn toàn giống nhau. Trước hết, cả Phôi và Hùng tuy cũng lần đầu đến Mỹ như tôi, nhưng họ lại có thời gian quen biết, cùng làm việc, sinh hoạt, tâm sự với người Mỹ ít nhất là 5 năm...Trước đó, trên 30 năm về trước khi người Mỹ ở Việt Nam đông đúc nhất, các bạn trẻ đó hoặc còn quá nhỏ, hoặc chưa sinh ra. Còn tôi thì ngược lại. Tôi phải tự thú nhận rằng với quan điểm của Đảng là khép lại quá khứ, hướng tới tương lai và Việt Nam đang muốn làm bạn với tất cả...Tôi đương nhiên là rất thông suốt và thống nhất về nhận thức. Tuy nhiên xét về tình cảm tôi khó có thể dễ dàng quên đi quá khứ. Cho nên chuyến đi này, với riêng cá nhân tôi không chỉ bị xáo trộn đồng hồ sinh học, không những đảo lộn ngày và đêm, mà còn có một thứ đảo lộn nữa: Người Mỹ quá khứ và người Mỹ hôm nay.
Cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Oa-sinh-tơn khuyên tôi nên tranh thủ về khu định cư người Việt để khảo sát mà biết thêm tình hình. Nhờ có xe ngoại giao và người của Đại sứ dẫn đi mà tôi làm quen được với hai người Việt trẻ đang sống trên đất Mỹ. Cậu con trai tên là Lâm, cô gái tên Châu. Cả hai đều là dân Huế . Lâm đã có Quốc tịch Mỹ, thậm chí đã vào lính Hải quân, làm "xếp" của 6 binh sĩ dưới quyền. Còn Châu thì chưa đươc nhập Quốc tịch Hoa Kỳ nhưng là bà chủ của một tiệm thẩm mỹ (sửa móng tay, móng chân). Họ thuộc thế hệ qua Mỹ sau năm 75. Lâm trước khi đi là sinh viên đại học, qua Mỹ học tiếp và bây giờ đã là cử nhân. Cả hai, cũng như đại đa số lớp người Việt hậu chiến qua Mỹ không mang nặng mối hận thù, không hằn học như một số trứơc đó. Mối quan tâm lớn nhất của lớp người này là cuộc sống giàu có trên đất Mỹ. Qua nói chuyện, cả Lâm lẫn Châu không hề có chút mặc cảm nào về quá khứ, họ cũng tỏ ra quan tâm đến Việt Nam nhưng không hề vướng bận gì đến những khái niệm "tôn giáo" "nhân quyền"...Có vẻ cũng thương nước mình nhưng là một thứ gần như thương hại. Đối với chúng tôi, họ vui vẻ và nhiệt thành lắm. Họ đưa chúng tôi vào khu dân cư Việt Nam ở bang Vơ-gi-nia để mời cơm Việt, ăn bún Huế với đầy đủ rau mùi gia vị Việt Nam. Châu nói chuyện say sưa cởi mở, tuyệt nhiên không để ý đến thái độ không thật bình thường của tôi khi bị chôn vào một vùng đất mà bốn bề toàn màu vàng của cờ ba sọc. Tôi cố ý không nói to để gây sự chú ý của những người đang ngồi ăn xung quanh. Nhưng Châu thì vẫn thao thao. Chuyện của cô gái trẻ đang mang thai đứa con thứ hai ấy đại để như thế này.
- Chú ăn bún có thấy ngon không? bún ở đây ngon lắm không như ở bên mình đâu....
- Cá kho tộ đây, chú ăn đi, ở đây họ nấu ngon lắm không như bên mình đâu...
- À chú thích giá luộc phải không? Thứ chi cũng có mà nó ngon lắm không như giá bên mình đâu....
- Ớt tươi hả, có có, em ơi cho chị mấy quả ớt tươi. Đây, chú ăn coi, ớt đây cay và thơm nữa, không như ớt bên mình đâu....
Tôi cố gắng nhai và nuốt. Không phải cơm nấu không ngon. Tôi cảm thấy khó nuốt vì kèm theo từng miếng thức ăn là cum từ "không phải như bên mình đâu" được điệp khúc có lẽ phải tới ba bốn chục lần. Châu nói vô tư, cởi mở, tuyệt nhiên không có ý gì là khiêu khích hay châm chọc cả. Nếu là lời của môt kẻ cố tình khiêu khích thì lại là chuyện bình thường, đằng này chính sự thực thà vô tâm đó mà tôi bỗng thấy buồn. Có lúc tôi muốn ngắt lời Châu: Này này... chú hỏi thực nhé, hồi còn ở quê cháu đã thực sự ăn ớt lần nào chưa, sao cháu biết ớt Mỹ cay hơn ớt bên mình? Nhưng tôi đã không nói gì. Không hiểu sao tôi bỗng nhớ tới mấy câu thơ của Việt Phương thời chúng ta đánh Mỹ: "..Ta nhất quyết đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ/ Hình như đó là niềm tin, ý chí và tự hào/ Mường tượng rằng trăng Trung Quốc tròn hơn trăng Mỹ/ Ôi sự thơ ngây đẹp tuyệt vời và ngờ nghệch làm sao..."
Những ngày ở Oa-sinh- tơn cán bộ Đại sứ ta bận tối mắt vì công việc chuẩn bị cho chuyến thăm của Thủ tướng Phan Văn Khải. Ngay trong tòa Thượng viện cái không khí ấy cũng phả ra rất rõ. Thượng nghị sĩ Chăk Higel, một cựu chiến binh từng bị thương hai lần ở Việt Nam mở đầu câu chuyện với chúng tôi đã khoe ngay: Chào các bạn Việt Nam, vài ngày nữa tôi sẽ tiếp kiến thủ tướng Phan Văn Khải....
Tôi hỏi anh bạn ở cơ quan đại sứ:
- Tôi thấy không khí ở Oa-sinh-tơn trước khi Thủ tướng ta hiện diện thật đặc biệt. Theo anh liệu chuyến đi lịch sử này của Thủ tướng có kết quả gì thật sự đột phá không?
Người cán bộ ngoại giao rất có kinh nghiệm đã tránh câu trả lời:
- Tôi khó trả lời anh quá, theo tôi là có nhưng xin anh chờ đến đó sẽ thấy...
Tôi cũng cười:
- Vâng vâng... Tôi biết anh là nhà ngoại giao mà... nhưng anh có thể trả lời câu hỏi này được không, liệu cái đám cờ ba sọc kia có biểu tình không?
Anh nhìn thẳng vào tôi:
- Ở nước Mỹ không có biểu tình mới là chuyện lạ. Ngay Tổng thống của họ đi trên đất họ cũng vấp phải biểu tình chống đối nữa là...Huống chi họ với ta...Người Mỹ hiện nay đang cố nuốt cái quá khứ cay đắng ấy xuống bụng nhưng dư vị thì vẫn còn cay ở cổ...Cái đám cờ ba sọc mà anh vừa nói cũng thế. Một số trong họ vẫn còn cay lắm, cay hơn ớt.
Bất giác tôi nhớ lại những lời tâm sự thơ ngây của Châu: Ớt đây cay lắm, không như ớt bên mình đâu...Có lẽ cháu nói cũng có cái lí. Nếu số người ấy ở lạiViệt Nam giờ họ không hằn học đến thế!
Biết tôi mới ở khu người Việt trở về, anh bạn ngoại giao nói luôn:
- Cộng đồng người Việt ở Mỹ cũng có nhiều tâm trạng khác nhau. Số cay cú thù hận vẫn còn nhưng không phải quá nhiều, cũng tan tạ rồi. Số trẻ thì sống theo tư duy Mỹ, thưc dụng, ơ hờ với chính trị. Cho nên theo tôi có biểu tình nhưng cũng sơ sài thôi.
Tôi thở dài:
- Biết vậy...nhưng kể cũng buồn...
- Này, tôi khuyên thật ông nhà văn nhé, ngồi ở đây ông cũng nên tập tư duy theo kiểu Mỹ đôi chút, sẽ thấy không có gì đáng buồn cả.
- Nghĩa là sao?
- Là thế này, ông thấy Tổng thống Mỹ xuất ngoại đi khắp thế giới có nước nào là không có biểu tình chống ông ta, kể cả những nước đồng minh thân cận nhất. Có nơi biểu tình lên đến hàng chục ngàn người, đốt cả hình nộm của ông, đốt cả cờ Mỹ...Nhưng ông ta vẫn là Tổng thống. Ở Hạ nghị viện vừa rồi có nhóm Nghị sĩ đòi thông qua dự luật cấm đốt cờ Mỹ. Cái này đưa ra nhiều lần rồi mà vẫn không qua được. Nghĩa là bây giờ ai muốn treo thì treo ai muốn đốt thì đốt...
- Anh nói kể cũng có lí...Nhưng cũng không hoàn toàn như thế đâu. Ví dụ như khi Clintơn qua ta có ai biểu tình đâu?
- Ấy đấy là chuyện khác, đấy là chuyện ở Việt Nam....
Nhân chuyện bàn về biểu tình, tôi nhớ lại hôm qua khi đi qua trước cửa toà án tối cao Mỹ, chúng tôi bắt gặp một tốp thanh niên 12 người, cả nam lẫn nữ đứng thành hàng ngang quay lưng lại khu nhà. Lúc ấy đúng giữa trưa, nắng rất gắt. Điều lạ nhất là, tất cả bọn họ đều bị bịt mồm lại bằng loại băng dán khổ to. Tuy đang đi rất vội để kịp giờ hội kiến với một vị Nghị sĩ nhưng tôi vẫn cố níu Chăk lại hỏi "Làm sao thế kia?" Chăk nói tỉnh khô: "biểu tình đấy" "vì chuyện gì?" "Ai mà biết, chuyện đó ở đây như cơm bữa ấy mà..." Tôi vẫn thắc mắc: "Nhưng tại sao lại bịt mồm họ lại?" "Ồ đấy là họ tự bịt, vì ở địa điểm này quy định không được làm ồn!"...
Hoàng hôn trên phố Oa-sinh-tơn, tôi đứng nhìn những tòa nhà hộp chồng chất nối tiếp nhau. Tôi ngạc nhiên khi thấy phố xá Mỹ rất ít người, ít xe qua lại. Người Mỹ hầu như đều ẩn mình vào trong các khối hộp kia, chẳng hiểu nổi họ đang làm gì trong đó. Nói chung còn quá nhiều điều chưa hiểu được nước Mỹ, người Mỹ. Những cựu chiến binh Mỹ khi tiếp tôi đều reo lên, họ nhắc lại chuỵên ngày còn đọ súng nhau ở chiến trương Việt Nam một cách hồn nhiên, rất vui vẻ, không hề gợn chút mặc cảm. Những lúc như thế tôi thấy người Mỹ thật vô tư, dễ mến. Nhưng khi đứng nhìn các đài tưởng niệm cựu chiến binh Mỹ tử trận tại Việt Nam, tôi lại thấy hình như mọi chuyện không đơn giản như vậy. Ở Mỹ, ngoài Oa-sinh-tơn DC có bức tường đen kìn kịt những dòng tên người tử nạn mà ai cũng đã biết, thì trên tất cả 50 bang, nơi nào cũng có một khu tưởng niệm. Tôi đã đến xem đài tưởng niệm tại Pitsbơt bên bờ sông O –hai- o. Quy mô đài không lớn, nhưng tư duy kiến trúc và mỹ thuật thì thật giàu suy tưởng. Đài hình chiếc mũ hiệp sĩ thời trung cổ. Trong lòng nó là hai nhóm tượng miêu tả hai trạng thái khác nhau. Một nhóm là cảnh đoàn tụ khi người lính trở về, có ba nhân vật: Người lính, người vợ, đứa con nhỏ trên tay... Một nhóm khác tách ra gồm hai nhân vật: một người mẹ với tay ra phía trước, ánh mắt nhìn vô vọng...Xa xa là người linh nhìn về, người lính chỉ còn trong tâm tưởng... Toàn cảnh khu này rất tĩnh mạc, phía dưới là dòng sông phẳng lặng, trên bờ là cỏ mượt mà. Đây là một bộ mặt khác, một không gian khác của nước Mỹ... Thì ra nổi đau chiến tranh cuả dân thường ai cũng giống ai!
Đêm nay, trước khi rời nước Mỹ, tôi đứng ngắm dòng sông Pô-tô-mác, sông tĩnh mạc đến rưng rưng…Tôi chợt nghe câu thơ Tố Hữu vẵng lên từ trong kí ức một thời, chợt thương cái anh Mô-rin-sơn và cô con gai Êmêli nào đó mà tôi chưa hề biết. Và bỗng nhiên tôi lại nghĩ đến cái triết lý làm người của phương đông "nhân chi sơ tính bản thiện", rồi tôi bỗng thấy tin hơn rằng, người ta hay người Mỹ cũng có bản tính đồng loại với nhau, niềm đau hay nổi buồn cũng giống nhau, khao khát, ước mơ cũng vậy cả ...Thế thì hết đêm chắc sẽ đến ngày, cho dù ngày và đêm ta lệch họ đến đúng một vòng quay đồng hồ.
Người bạn đồng hành với tôi qua Mỹ rồi về lại Việt Nam-Chăk sacy có quyết tâm rất cao để học nói tiếng Việt. Chăk rất thích dùng tiếng ơi...trong khi nói chuyện. Đức ơi, Phôi ơi, Hùng ơi...Chăk không hiểu được rằng trong cách nói của người Việt, tiếng ơi thường dùng khi phải gọi người còn ở xa. Dù sao nghe Chăk nói Đức ơi tôi cũng cảm thấy bùi bùi và thân thiện. Và như một thói quen dễ lây tôi cũng hay gọi lại: Chăk ơi...
Hôm nay ngồi nhớ lại một chuyến đi, cả niềm vui lẫn nỗi buồn; cả trạng thái phấn khởi lẫn khi bực tức cau có, tôi vẫn muốn bắt chước cách gọi đó. Chăk ơi... Người Mỹ ơi ... Đồng bào mình bên đó ơi....
Đông Hà ngày 4/7/2005
X.Đ