Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 06/05/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Lễ hội chợ đình Bích La: Một vài luận bàn và kiến nghị

            1. Đặt vấn đề:

Lễ hội cổ truyền luôn là bản thông điệp giàu sức chuyển tải các giá trị nhân bản, nhân văn, giàu ý nghĩa về tín ngưỡng tâm linh và văn hoá, mang tính thẩm mỹ cao, sức lan toả lớn, đóng góp tích cực vào truyền thống bản sắc nhân văn của từng cá nhân và cộng đồng.

Do điều kiện hoàn cảnh sống, do nền tảng môi trường nên đa phần lễ hội dân gian Quảng Trị là các lễ hội nông nghiệp. Hầu hết các hội làng đều phản ánh cuộc sống nông nghiệp, mang bóng dáng của nhà nông. Tìm hiểu lễ hội nông nghiệp là góp phần tìm hiểu diện mạo cuộc sống của tổ tiên ta, tìm hiểu bản sắc văn hoá dân tộc, quê hương hàm chứa trong các lễ tục, là khai thác những giá trị tinh thần tốt đẹp trong quá trình dựng nước ở những con người nhà nông lam lũ sáng tạo chịu khó chịu thương nặng nghĩa nặng tình với quê hương xứ sở. Với quan điểm “ôn cố tri tôn”, chúng ta sẽ chọn lọc kế thừa phát huy và phát triển những yếu tố tích cực của lễ hội nông nghiệp trong đời sống xã hội hiện đại mong sao cho nó ngày càng đẹp hơn lên; nhân văn hơn lên, góp phần làm cho cuộc sống ngày càng yên vui, tươi đẹp và hạnh phúc thịnh vượng.

Nghiên cứu lễ hội dân gian truyền thống chính là một việc làm mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao phù hợp với giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, xây dựng làng văn hoá và gia đình văn hoá, phù hợp với tinh thần Nghị quyết Trung ương V khoá VIII của Đảng về “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.

Hiện tại chúng ta đang xúc tiến đẩy mạnh phát triển nền kinh tế du lịch, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà đang làm hết sức mình để trình Chính phủ đăng ký năm du lịch Quảng Trị – 2007. Chúng ta có một thế mạnh rất lớn về du lịch hoài niệm – với cả một hệ thống di tích lịch sử cách mạng hết sức phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình và tầm cỡ về nội dung chuyển tải, chính điều đó tạo nên sự giàu có phong phú và đồ sộ mang tính chất đặc thù độc đáo trong toàn bộ di sản văn hoá trên vùng đất Quảng Trị. Song hành với một loại hình di tích độc đáo đó càng củng cố phát triển hơn thêm nhiều loại hình du lịch khác như: du lịch sinh thái, du lịch phục hồi sức khoẻ, du lịch làng nghề, du lịch lễ hội dân gian,... nghiên cứu lễ hội dân gian cổ truyền cũng chính là góp phần xây dựng và phát triển đa dạng hệ thống loại hình du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế du lịch tỉnh nhà.

2. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển làng Bích La:

Làng Bích La xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong là một làng có bề dày lịch sử, văn hoá lâu đời. Sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An biên soạn năm 1553 có đề cập đến làng Hoa La Nằm trong cụm các làng cổ quanh vùng như An Lộng, Hà My, Nại Cửu,... là một trong 49 làng xã cổ thuộc huyện Hải Lăng, Phủ Triệu Phong hiện nay. Theo các tài liệu cổ bằng Hán tự được lưu giữ ở kho lưu trữ Trung ương, ở Thư viện Thừa Thiên Huế, cũng như ở Ban điều hành làng văn hoá, các vị tộc trưởng,... được các cụ cao niên thông thái nho học ở làng dịch nguyên văn, thì làng được hình thành là do: “Ngài Bổn thổ khai khẩn cai tri phó tướng Doãn Lộc Hầu Linh tế Hán ngự sắc phong Dực Bảo Trung – Hương Linh phò Tôn Thần, nguyên quán làng Hoa Duệ thuộc Châu Hoan (tức là Hà Tĩnh – Nghệ An ngày nay), tính tình trung hậu, tinh thông binh pháp. Năm niên hiệu Thống Nguyên (1527) triều Hậu Lê, Ngài làm chức chính chưởng – Trung – Tế. Nhân lúc Mạc Đăng Dung sắp tiếm quyền, Ngài lãnh mệnh lệnh trước của Triều Lê vào trấn thủ hai xứ Tân Bình và Thuận Hoá, ngăn chặn Chiêm Thành, chiêu mộ lưu dân, khai khẩn ruộng hoang, thành lập tổng xã, bình định các tù trưởng địa phương. Ngài có đem theo 14 vị,... để ở lại xứ Thuận Hoá lập làng lấy tên là Hoa An. (đến thời Tây Sơn đổi thành Hoa La, Triều Nguyễn đổi thành Bích La được sử dụng đến ngày này)”. Đối chiếu với Ô Châu Cận Lục viết năm 1553 – tức sau khi làng hình thành 26 năm thì Dương Văn An ghi là Hoa La. Có lẽ tên gọi của làng ban đầu là Hoa La sau đó đổi thành Hoa An vào thời Tây Sơn thì chính xác hơn. Trong diễn văn đón nhận bằng di tích lịch sử văn hoá họ Lê của làng Cẩm Duệ – Cẩm Xuyên ngày nay (Hoa Duệ/ Châu Hoan ngày trước) cũng đề cập đến sự kiện này, diễn văn ghi rõ: “Đến đời nhà Mạc, do người dòng họ Lê là cựu thần nhà Lê là Lê Mậu Tài làm đến chức Trung tể Tướng quân, không phụng sự Triều đình nhà Mạc (Mạc Đăng Dung 1527 – 1529) do đó có sự hiềm khích trong Triều; sợ nhà Mạc trả thù nên đã di chuyển và sinh sống vào làng Bích La huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Đó chính là Liệt tổ của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn. Những sự kiện lịch sử còn được ghi lại trong gia phả dòng họ Lê ở làng Bích La Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; thời kỳ đương nhiệm vào ngày 14/3/1979, có Tổng Bí thư Lê Duẩn đã về thăm Am tháp, thăm cây đa làng Phương Cai xã Cẩm Duệ để bái tổ và thăm cố hương”.

Do quá trình phát triển dân cư, khai hoang mở rộng cương vực cư trú, Làng Bích La xưa hiện tại phát triển thành năm làng (các cụ gọi là Ngũ giáp) thuộc địa phận 3 xã: Bích La Hậu thuộc xã Triệu Tài, Bích La Thượng thuộc xã Triệu Long, Bích La Trung, Nam và Đông thuộc xã Triệu Đông.

Hiện nay 14 họ tộc của làng Bích La xưa, cộng cư sinh sống trên một cương vực rộng lớn của năm làng thuộc ba xã trọng điểm của vùng đồng bằng vựa lúa Triệu Phong. Từ xưa đến nay dân làng luôn đoàn kết gắn bó, chung lưng đấu cật xây dựng quê hương ngày càng phát triển giàu mạnh. Các thế hệ con cháu trong làng học hành thông thái đỗ đạt cao, đóng góp nhiều sức lực trí tuệ cho quê hương đất nước, trong chế độ phong kiến trải qua các triều chúa, triều vua. Nhiều người con của làng là những ông nghè, ông cống, nhiều người là quan võ, quan văn giữ nhiều trọng trách của triều đình. Từ ngày có Đảng con em dân làng đi theo tiếng gọi của Đảng, của quê hương tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm, nhiều người giữ các trọng trách quan trọng của Đảng và Nhà nước, điển hình nhất là đồng chí cố Tổng Bí thư Lê Duẩn của chúng ta.

3. Những vấn đề khảo cứu và đề xuất:

Đình làng Bích La được xây dựng từ rất sớm trên vùng đất Quảng Trị. Năm 1527 cụ Lê Mậu Doãn (chính là Ngài Bổn thổ khai khẩn Lê Mậu Tài, chức tước Doãn Lộc Hầu...) đã lập nên đình làng trên một vùng đất đầy linh khí sơn thủy hữu tình. Nguyên thuỷ ngôi đình được thiết kế theo dạng đình hình chữ nhất (-) gồm năm gian, lợp bằng tranh tre. Phía Tây có con sông lạch bắt nguồn từ sông Thạch Hãn, nhánh An Mô, phía Bắc có núi Cửa Rào bạt ngàn cây cối; bên cạnh đình là con hói chín khúc nước chảy quanh năm lượn qua đình làng. Hói nằm vắt dọc theo bờ làng định hình con rồng toạ lạc, được các cụ gọi là Cửa tuyền long mạch – nước từ sông chín khúc tuôn ra, cảnh trí thiên nhiên nơi đình làng toạ lạc được dân làng khắc hoạ trong hai câu đối trước cổng đình:

“Địa chung linh khí tuyền thiên cổ

Thế xuất anh tài diễn ức niên”

Khác với nhiều ngôi đình làng ở Miền Trung, Đình Bích La được thiết kế theo dạng đình mở, xung quanh không có tường bao; với chức năng chính là nơi hội họp của các bậc cao niên trưởng tộc trong làng; nơi sinh hoạt, quần tụ vui chơi của dân làng và tiếp đón khách thập phương. Còn thần hoàng làng được thờ tự ở một tổ hợp thờ thần, chính trên vùng đất linh khí ấy ở bên phải đình làng, chứ không phải thờ ngay trong đình làng như ở một số làng quê khác. Hiện tại, đình được xây dựng bằng bê tông cốt sắt, lợp ngói, gồm ba gian thoáng mát, vẫn không có tường bao che; giữa đình đặt hai bộ tràng kỷ làm nơi hội họp của các trưởng tộc. Phía Tây cách đình 200m là Miếu thờ Âm dương; phía Bắc có miếu thờ bà Hỏa. Trong khuôn viên đình là tổ hợp các Nghè Miếu thờ thần gồm 11 vị thần được dân làng tôn kính, gồm: Miếu thờ Cao Các Đại vương, Miếu thờ thần Hoàng (Bảo An Tôn thần), Miếu bà chúa Ngọc (Nữ thần Chàm Thiên yana); Miếu Sơn Xuyên (Quốc an tôn thần); Miếu bà Lôi (thần sấm sét), Miếu xã tắc (thờ thần nông), Miếu Trung Đình (cầu dân an vật lợi), Miếu ngài tiến sĩ (tiến sĩ Lê Cảnh Phiến Bá), Miếu Tiên tổ Thị Hoàng; Miếu thờ Bổn thổ khai khẩn Cai tư phó tướng Doãn Lộc Hầu; Miếu ngài tiến sĩ (tiến sĩ Lê Cảnh Diệu Bá).

Trước tổ hợp Miếu thờ là hồ nước trong xanh, dân làng lấy nước uống quanh năm. Tương truyền rằng, nơi đây xưa có một con rùa vàng sinh sống, hàng năm vào sáng mồng ba tết Nguyên Đán dân làng đến thắp hương, dâng hoa ở Đình làng và xem rùa nổi lên quần lượn quanh hồ và đó cũng chính là điềm báo tốt lành cho một năm có mưa thuận gió hoà, dân làng làm ăn phát đạt, thịnh vượng. Nhưng bỗng có một năm hồ đình làng trở màu nước đục và không thấy rùa vàng xuất hiện, dân làng tỏ ra lo ngại là sẽ gặp vận chẳng may (điềm xấu) và qua kiểm nghiệm thì năm đó là một năm có mùa màng thất bát, thiên tai hoành hành, lụt to bão lớn. Từ đó dân làng mới nghĩ ra cách là: hàng năm vào sáng mồng ba tết Nguyên Đán làng phải mở hội lớn, nên đến khoảng canh tư (từ 3 giờ sáng) dân làng không ai bảo ai lần lượt kéo nhau tụ tập về quanh hồ Đình Làng trống giong cờ mở, đèn đuốc, gõ mõ thanh la,... cầu rùa vàng dậy, bơi lội trên mặt hồ để ban phát cho dân làng gặp vận may phát tài phát lộc. Và quả thực rùa vàng dưới hồ lại nổi lên, năm đó lại có mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, cuộc sống yên vui, hạnh phúc. Và cứ thế hàng năm vào sáng mồng ba tết Nguyên Đán, dân làng Bích La lại hội tụ về Đình Làng thắp hương khấn lễ đầu năm và trẩy hội. Chính từ sự hội ngộ đầu năm đông đúc và mong ước cầu tài cầu lộc nên dân làng hình thành nên phiên chợ: Phiên chợ Đình làng Bích La ra đời.

Như vậy, nhìn một cách tổng thể, lễ hội chợ Đình Bích La gồm ba phần chính: Phần lễ, phần hội, và phần họp chợ. ở đây chúng tôi không mô tả lại những nghi lễ trong phần lễ, các công đoạn vui chơi của phần hội cũng như cảnh mua bán trao đổi ở chợ Đình. Mô tả cảnh quan này đã có một số bài viết của tác giả Kim Quy như: “Lễ hội chợ đình Bích La” đăng ở tạp chí Cửa Việt số tháng 2/2004; hay “Bích La trẩy hội” đăng ở bản tin VHTT số Xuân Quý Mùi 2003. Qua khảo cứu điền dã, và nghiên cứu các hoạt động lễ hội, chúng tôi thấy cần được đề xuất một vài kiến nghị, ngõ hầu mong cho lễ hội ngày một phát triển hơn lên, vừa giữ được nét truyền thống vừa mang một thần thái mới hơn, làm thoả mãn hơn nhu cầu văn hoá, tâm linh của người dân ở quanh địa bàn Bích La và du khách gần xa khi hành hương về với lễ hội.

Ở phần lễ:

Hiện có ba lễ chính diễn ra trong những ngày đầu xuân ở khu vực Đình làng là lễ cáo tổ tiên vào chiều 30 tết, lễ cúng đầu năm vào mồng một tết và lễ cầu thần kim quy vào sáng mồng ba tết hàng năm. Ở lễ cáo tổ tiên và cúng đầu năm nên giữ nguyên, đúng với các lễ thức truyền thống mà các cụ bô lão, các vị tộc trưởng ở làng xưa nay đã cúng tế, yết bái tổ tiên. Riêng lễ cầu thần kim quy nên được tổ chức một cách quy mô hơn, phong phú hơn: trước ngày lễ hội nên thành lập ban tổ chức lễ và ban tế lễ; ban tổ chức bao gồm: đại diện lãnh đạo thôn, các bô lão, các tộc trưởng; ban tế lễ gồm chủ tế, tư văn, xướng tế, chấp sự, đồng văn; nên có văn lễ cầu thần bằng tiếng việt, súc tích, dễ hiểu; có đủ đội âm nhạc gồm đại cổ và tiểu cổ phục vụ cho phần cúng lễ và cả khi khách thập phương về dâng hương. Trang phục ban lễ chỉnh tề, trang trọng: chủ tế áo dài thụng màu vàng, mũ cử nhân, tư văn, xướng tế, chấp sự đồng văn... áo dài đen khăn đóng. Nghi thức, xướng lễ theo truyền thống, tiến hành đủ các công đoạn như cũ từ lễ vật, lễ thượng hương, chước tửu, đọc chúc, hoá chúc, điểm trà,...

Tiếp theo phần tế lễ của ban chấp lễ là lễ dâng hương của các bô lão, các vị tôn trưởng trong làng và du khách thập phương,...

Sau khi tiến hành xong phần lễ, tức ở giai đoạn hoá chúc cũng là lúc khởi chiêng, trống, mõ, phèng la và kết hợp với phần hội như múa lân, múa rồng, múa rối nước và cho rùa vàng nổi.

Ở phần hội:

Hiện tại kết hợp với phần lễ sáng mồng ba tết là các hoạt động trao đổi cầu lộc đầu năm diễn ra ở chợ Đình và hoạt động múa hát của đội múa lân, hát bả trạo, thời gian diễn ra cũng chỉ trong ba mươi phút.

Nên chăng ở phần hội cần phải được sự quan tâm đầu tư của các cấp các ngành để mở rộng, xây dựng các hình thức hoạt động phong phú hơn, đa dạng hơn.

Ở phần hội, trong nghi lễ cầu thần kim quy cần phải được bổ sung thêm hoặc thay thế hội hát bả trạo bằng múa rồng, múa rối nước,... dễ phù hợp hơn với cư dân nông nghiệp lúa nước với ý nghĩa cầu mưa thuận gió hoà như ước muốn của dân làng. Theo truyền thống thì trước đây không có đội hát bả trạo mà nghi lễ này mới chỉ được đưa vào trong lễ hội cũng chỉ vài ba năm nay. Hát bả trạo chính là hát bạn chèo đưa ông, là một thể loại dân ca nghi lễ phổ biến của ngư dân vùng biển. Hát bả trạo có nghĩa hát nắm mái chèo (bả: nắm chắc; trạo: mái chèo); đây là thể loại múa hát trong các lễ hội cầu ngư, hay lễ đưa tang cá ông bị chết trôi dạt vào bờ vì thế đưa điệu hát này vào trong lễ cầu thần kim quy ở trước đình làng phải chăng có phần nào chưa hợp lý. Thực tế, ở cạnh hồ đình có một hồ nhỏ khá đẹp, nên được thiết kế ở đây một thuỷ đình có đội múa rối nước hoạt động trong những lúc tế lễ và cả những ngày đầu xuân. Chúng tôi mang kiến nghị này tiếp kiến với ban lãnh đạo thôn và các cụ bô lão ở trong làng, họ rất muốn được đầu tư, gửi con em theo học khoá đào tạo múa rối nước này vì chính con cháu trong làng cũng là người rất giỏi chuyên môn ở lĩnh vực rối nước. Bên cạnh đó, tiếp tục phục hồi và mở rộng các hoạt động văn hoá thể thao ngày Xuân truyền thống như: bài chòi, cờ chòi, lô tô, đánh đu, kéo co,... cũng như các trò chơi dân gian và các môn thể thao hiện đại khác,...

Ở phần họp chợ:

Chợ phiên nhóm họp ở sân đình làng Bích La vào mỗi độ Xuân về, nhà nhà ai ai cũng háo hức đón mừng một phiên chợ mới – chợ chỉ nhóm họp trong thời gian khoảng từ 3- 4 giờ sáng đến 9 giờ ngày mồng ba tết.

Phiên chợ này chính là nơi giao lưu, gặp gỡ, thăm hỏi nhau và trao đổi một số mặt hàng nông sản cây nhà lá vườn để cầu lộc đầu năm. Có người chỉ đưa đi bán với mớ cá nhỏ để mua lại mớ rau xanh hay vài bó hoa tươi, chùm trái ngọt để đổi lấy nén hương sang viếng đình làng, lễ Phật ở chùa làng, tỏ tấm lòng thành cũng như niềm tôn kính với tổ tiên. Tất cả các hình thức trao đổi mua bán ấy chỉ mang tính chất hái lộc đầu năm; các yếu tố thương mại tiền tệ thuần tuý hầu như rất mờ nhạt. Như vậy với một lưu lượng tham gia họp chợ có lúc đến hàng ngàn người (có năm còn đông hơn) và tính chất thương mại không đậm nét thì có thể coi phiên chợ tết ở Đình Bích La là một ngày hội lớn của làng. Hiện tại chúng ta không thể làm mất ý nghĩa cầu lộc ấy, thậm chí còn đẩy lên cao hơn nhưng vẫn có thể lôi kéo cuốn hút, huy động thêm nhiều mặt hàng, nguồn hàng mới ở khắp mọi miền quê Quảng Trị về tham gia trao đổi mua bán ở nơi đây. Từng du khách, từng gia đình,... có thể mua các mặt hàng nông sản thực phẩm ở chợ đình mang về làm lễ cúng đưa ở gia đình mình trong ngày mồng ba, mồng bốn tết thì ý nghĩa cầu lộc ở chợ đình càng đi vào tâm thức hơn và phổ quát rộng rãi hơn.

Nhiều mặt hàng có ý nghĩa văn hoá cao trong ngày tết như: Viết câu đối; thư pháp; những chú gà đất, voi đất, báo đất truyền thống gắn liền với lễ hội cần được mở rộng và phát triển hơn lên.

Như vậy, phải làm sao cho phần vui chơi ở hội; trao đổi cầu lộc đầu năm ở chợ cùng song hành tồn tại; làm hấp dẫn thu hút du khách thập phương về với lễ hội đình làng Bích La ít ra là trong hai ngày mồng ba và mồng bốn tết hàng năm. Có như vậy lễ hội chợ Đình Bích La mới ngày càng gắn chặt với chiều sâu tâm thức của người dân Quảng Trị và du khách gần xa khi về trẩy hội đầu xuân. Và cũng chính làm được như thế mới tạo ra một địa chỉ văn hoá - lễ hội dân gian truyền thống điển hình trên vùng đất Quảng Trị; làm thoả lòng mong đợi của du khách thập phương.

  L.Đ.H

LÊ ĐÌNH HÀO
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 138 tháng 03/2006

Mới nhất

Hòn ngọc Bali giữa biển xanh

30/04/2024 lúc 17:44

 Người Việt đi du lịch Bali, hầu như chỉ biết đến những bãi tắm xa

Tự do xanh quá, mênh mông quá

30/04/2024 lúc 04:11

Thơ ca không phải là ghi chép lại lịch sử nhưng lịch sử qua thơ mang một vẻ đẹp bất ngờ và độc đáo không thể hình dung hết. Tuy nhiên, để làm được điều đó, thi sĩ phải thực sự tài năng và có cơ hội tiếp cận được hiện thực lộng lẫy trong những thời khắc có một không hai của lịch sử. Hai mươi năm đánh trận trường kỳ, cả dân tộc không đêm nào ngủ được, cả dân tộc hành quân ra trận, cả dân tộc đội triệu tấn bom để hái mặt trời và có ngày Chiến thắng 30 tháng tư năm 1975, cũng là ngày mở ra cánh cửa hòa bình, thống nhất non sông cho đất nước.

Trên đất đồi đã thôi thuốc súng

28/04/2024 lúc 16:38

Để thấy sự hồi sinh của một vùng đất, đôi khi phải làm khách vãng lai quan sát. Nhận ra

Mùa hoa chêng đỏ

28/04/2024 lúc 16:33

Chưa bao giờ chêng nghĩ mình là một loài hoa được nâng niu, chiều chuộng, cũng không mơ được

Trận pháo kích Cứ điểm 241

28/04/2024 lúc 16:31

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ, miền

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

07/05

25° - 27°

Mưa

08/05

24° - 26°

Mưa

09/05

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground