Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 03/05/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Tết ở chiến khu Ba Lòng và bài hát

T

hế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.

Sau trận càn Phong Thu, phòng Chính trị Phân khu bị tổn thất một số cán bộ bị địch bắt, trong đó có anh Đàm Viết Bằng ở đoàn văn công chúng tôi. Họ bị đày ra Côn Đảo, năm 1954 mới được trao trả. Ở đồng bằng, trận càn Phú Vang, đội tuyền truyền tỉnh Thừa Thiên bị địch vây. Vợ chồng nhạc sĩ Nguyễn Hồng bị Tây bắn chết. Chúng dẫm nát cây đàn ghi ta của anh. Các anh Trọng, Thuyên, Ngọc, Chung... bị bắt và cùng bị đày ra Côn Đảo. Cây đàn bị dẫm nát. Sau trận càn, nhân dân đã chôn một cây đàn giữa hai ngôi mộ vợ chồng nhạc sĩ.

Năm ngoái, ở nhà mẹ An, tổ văn nghệ báo chí còn cùng nhau đón giao thừa. Bây giờ, anh Nguyễn Khắc Thứ và anh Trần Quốc Tiến cùng anh Văn Tôn được phái vào nhà in Mặt trận trông nom việc ra báo. Anh Đình Quang và anh Bửu Tiến được cử ra vùng tự do Thanh Nghệ để thành lập đoàn văn công mới. Các anh khác được điều động về đơn vị. Trước đó, tôi và Lê Lự được về công tác ở Trung đoàn 95 dưới đồng bằng, nên thoát được trận càn. Nay lên lại chiến khu, chính thức cầm quyết định về trung đoàn, thành lập đội tuyên truyền văn nghệ. Trong khi chờ anh Vũ Lân, bí thư  chi bộ, hiện đang công tác ở đồng bằng về ký giấy giới thiệu sinh hoạt đoàn thể, chúng tôi được ra ở nhà mẹ An và được phát mỗi người năm kg "gạo thối". Tây càn quét phá mùa, trận lụt lịch sử năm 1950 như muốn thử thách ý chí của quân dân ta. Thóc chôn dưới đất bị ngập nước, phơi khô, chỉ được xay hết lớp trấu. Gạo nấu lên có mùi thum thủm, phải quạt cho nguội hết mùi mới ăn được. Xin lỗi, khi "đi đồng" hạt cơm còn nguyên.

Mấy đêm qua, mưa lạnh, ôm nhau, đắp mấy tấm phông màn làm chăn, rét quá, không ngủ được, nên đêm nay, mệt quá, ngủ thiếp đi từ đầu hôm, không nghe được tiếng súng đón giao thừa ở Phòng Tham mưu.

Sực tỉnh dậy, trời đã sáng. Một ngày nắng đẹp bắt đầu. Ánh nắng từ phía biển, tuy bị rặng núi Trấm che lấp vẫn tràn vào vùng núi chiến khu. Rừng sáng bừng lên. Hai cánh đồng hai bên bờ sông Thạch Hãn, đồng bào vừa trỉa bắp. Cây bắp đã cao bằng gang tay. Những chiếc lá màu xanh non rung rinh theo gió trên nền đất đỏ tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Trong lớp tán cây rậm rạp ở dốc làng Hạ, lũ vượn vẫn kéo dài tiếng hú nghe lảnh lót đón một ngày nắng đẹp.

Đêm qua, chúng tôi đã cố ý gấp gọn bộ quần áo bằng vải Si - ta (Liên khu 5) đặt lên gối ở đầu giường để có được nếp là, diện vào ngày đầu xuân.

Hai chúng tôi chuẩn bị xuất hành, trong túi rủng rỉnh mấy chục đồng phụ cấp mới được phát.

Ra khỏi nhà, định sang cơ quan tỉnh đội ở ngay sát cạnh. Chúng tôi gặp ngay o Khánh, người của tỉnh đội đang giặt dưới bến. Đợi Lự đi trước vài bước, Khánh dúi vào tay tôi mấy chiếc bánh thuẩn (bánh quả bàng) và mấy chiếc bánh in bọc giấy xanh đỏ. Khánh đã có người yêu là anh Chẩn cũng ở tỉnh đội. Nhưng đối với anh lính miền Bắc xa nhà là tôi, Khánh vẫn có cảm tình riêng! Sau 1954, Khánh và Chẩn cưới nhau và hình như ở thị xã Đông Hà.

Cán bộ tỉnh đội đi chúc tết gần hết, chúng tôi gặp anh Nguyễn Viêm, và anh Sy Minh (một nhạc sĩ mới ở vùng tự do vào bổ sung cho tỉnh).

Tôi nhớ mãi câu nói của anh Sy Minh với anh Viêm - Où est mon "gui' sta re" (ghi ta của tôi đâu?) Anh Nguyễn Viêm, sau 1954 ra Hà Nội được cử đi học nhạc ở nước ngoài và về công tác nghiên cứu ở Viện Âm nhạc (có sáng tác ít bài) và đã mất ở Hà Nội. Anh Sy Minh, người An Cư sau đó nhảy vào Thành, lấy vợ Huế, sau bỏ vào Sài Gòn và nay không có tin tức.

Đi qua một cái quán bên đường, Lự ghé vào tai tôi nói nhỏ: "Anh nhớ cái "đồn" này không? Mỗi lần đoàn mình hành quân qua đây, anh Bảy cứ phải cúi lom khom chỉ sợ người trong "đồn" chạy ra đòi nợ!"

Tôi chợt nhớ tới hai câu thơ tặng Bảy:

Phong Chương, Đại Lộc, Chiến khu

Đâu đâu cũng thấy Bảy gù lang thang... và ăn quán nợ đầm đìa...

Anh Bảy ít lâu sau cũng bỏ về Thành, đến nay cũng không được tin gì về anh.

Đến Đá Nổi, chúng tôi vào chúc tết đầu tiên là nhà anh Bùi Tá Bàng, ty trưởng Ty Công an Quảng Trị. Dạo mới vào chiến trường (đầu năm 1949), chưa có nhà cho Đoàn, chúng tôi được chia nhau ở nhà dân tại Đá Nổi. Tôi ở nhà anh Bàng. Vợ anh, chị Bốn có hai cô em là o Năm và o Sáu. Chị mở quán bán xôi thịt hoong, chè hoa cau, chè đậu xanh đánh, kẹo lạc đổ trên bánh đa... vì sợ lũ, nhà nào cũng đổ nền cao, muốn lên nhà phải trèo mấy bậc. Anh Bàng trực cơ quan, các o tiếp chúng tôi niềm nở, ân cần mời ăn đủ thứ. Chúng tôi trả tiền, các o không nhận... Tết mà! - O Năm, o Sáu có ra Hà Nội và công tác ở nhà máy dệt kim Đông Xuân.

Chúng tôi ghé quân y trung đoàn thăm chị Quý, y tá, người yêu của anh Kinh Kha, cán bộ tiểu đoàn E 95. Anh Kha người Huế hào hoa, tiếng Pháp rất giỏi. Nhớ nhất là  bài hát "Bao giờ anh lấy được đồn Tây" (Phạm Duy) anh dịch nguyên văn ra tiếng Pháp và hát rất đúng nhạc" "Mà tanh (Matin) căng (quand) rô-dê (rosée) Phờ lù (Floue) mông-ta-nhơ (montague) - dịch câu: "Buổi mai khi sương rơi mờ trên núi!"

Anh Kim Kha sau công tác ở Bộ Ngoại giao, lấy vợ Hà Nội ở phố Tôn Thất Thiệp và đã mất được sáu năm.

Chúng tôi ghé Ty Thông tin Quảng Trị, gặp anh Lương An đang ngồi một mình. Dáng cao cao, gầy gầy, khuôn mặt dài, anh buồn bã báo chúng tôi tin hai vợi chồng Thiết - Cẩm và gia đình đã về Thành.

Tối nhớ dáng anh Thiết gầy gò, mặc áo bà ba, hai tay đút túi, cất giọng hát bài "Tỳ bà hành": "Gió thu sang ướt áo ngư hàn" ngâm câu Hoàng Hoa Tửu, khói trầm hương bay... "Hai anh chị mới từ Việt Bắc vào tại Đại hội Văn nghệ tỉnh , hai vợ chồng đã hát "Lúa vàng" của tôi và "Lời người ra đi" của Trần Hoàn. Bài của Trần Hoàn bị Đại hội phê phán vì câu: "Rằng kháng chiến còn trường kỳ và còn... gian... khổ ô ô. Nghe nó gian khổ quá, ai còn dám đi kháng chiến nữa?! Thiết - Cẩm vào thành hát cả hai bài. Bài "Rằng kháng chiến còn trường kỳ"... là tên thật của bài này, sau được Hoàng Thi Thơ phối âm dùng tiết tấu nhanh, rộn ràng nên xóa bỏ được cảm nhận gian khổ.

Anh Lương An khoe với chúng tôi, báo tỉnh vừa in bài "Ba Lòng" của anh. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ những câu thơ:

Đò em lên xuống Ba Lòng

Chở người cán bộ lên vùng chiến khu...

...

Ai về Bến Trấm thì lên

Về cho sớm sớm, mưa đêm khó chèo...

Anh cho tôi xem cả bài "Hoài ơi!" của anh Vĩnh Mai, Ty trưởng Ty Thông tin:

..."Tau với mi hẹn nhau từ khu bộ

Lúc trở về, cố sáng tác văn chương...

...

Mi về chi Phú Lộc

Để cho Tây phục kích, bắt mi đi!

Tau biết rồi, mi vốn tính khinh khi

Coi cái chết như trò chơi con trẻ...

... Làng Văn Chương đâu có thiếu chi người

Tau nói thế mà lòng tau ứa lệ!...

Trong không khí buồn bã tôi cũng báo cho anh, tin anh Phúc ở đoàn tôi cũng bỏ về thành ở Quảng Bình; anh Phú người thổi tiêu rất hay, hay hát bài của Nguyễn Đình Phúc viết về người chiến sĩ da đen châu Phi cũng đã về Thành. Tôi thẳng thắn kể ra đây, một số ít anh em văn nghệ sĩ sau trận càn, trận lụt năm 1950, không chịu được gian khổ bỏ về Thành. Ngược lại, để biểu dương một anh bạn khác, cùng tôi đi từ Thanh Hóa vào: anh Văn Tôn tức Vĩnh Tôn (một hoàng thân) ba anh là ông Bửu Phu, Tri huyện Cam Lộ, sau thăng lên tỉnh trưởng, anh ruột là Vĩnh P hay làm thơ, lấy bút danh là "Tú bạc nhạc. Chỉ nửa ngày đường về Huế, là Tôn sẽ được sống trong nhung lụa! Anh Tôn vẫn ở với kháng chiến cho đến hòa bình, tập kết ra Bắc ở Hà Nội, công tác ở Nhà xuất bản Phổ thông. Thập kỷ 60, xin ra ngoài biên chế, về sống ở Cảnh Dương (Quảng Bình). Hàng ngày vị "hoàng thân" ấy, cởi trần, mặc quần đùi, ra biển câu cá, chiều đem ra chợ bán, lấy tiền đong gạo nuôi thân. Còn nhớ các mẹ thường kêu nhau" "... Ra mua cá của thằng Tôn mà nghe nó đọc thơ! - Tôn! - Đọc thơ đi mi". Cho đến khi bài thơ "Cồn Cỏ" được giải thưởng Báo Văn nghệ Trung ương ký tên Hải Bằng ta mới biết Hải Bằng là Văn Tôn (Vĩnh Tôn) một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam. Hải Bằng  đã đi xa hơn năm năm...

Một ngày đầu xuân nắng đẹp cực kỳ, hai chúng tôi làm một cuộc du xuân vòng quanh hai bờ sông Thạch Hãn. Lúc trở về, qua con đò ở Khe Giữa, ánh nắng chiếu trên mặt sông loang loáng. Chúng tôi chúc tết bác lái đò. Mái chèo đưa nhẹ. Những giọt nắng tranh nhau nhảy múa, hòa tan, chạy nhanh trên mặt sông.

Đã quá trưa, mệt nhưng không muốn nghỉ. Vừa lúc ấy, anh Lân đem quyết định và giấy giới thiệu sinh hoạt, phân công chúng tôi về xây dựng đội tuyên truyền văn nghệ của Trung đoàn 95. Niềm vui bừng lên trong tôi. Nhìn về phía dốc làng Hạ, lũ vượn thôi không hú và cắn nhau riu ríu nữa. Chim trong các vòm cây đua nhau hót. Tôi lấy cây đàn ghi ta và giấy bút, nắn nót viết hai chữ thật to "Xuân rừng":

"Núi nằm yên trong nắng mới xuân về, rừng rung theo làn gió nhẹ lay

Mây lờ trôi lang thang như mang nỗi sầu oán để lãng quên ngày tháng.

Líu líu líu, lo lo chim hót khắp trời hòa cùng tiếng suối reo

Róc rách, rót đều vào vách đá rêu xanh như  muôn tiếng đàn.

Bài hát viết ở giọng Rê thứ, tiết tấu vui, rộn ràng, tôi đệm theo điệu Bô - - rô. Thời gian này, các điệu nhạc khiêu vũ như Fox, Rumba, Cha Cha Cha... bị cấm kỵ. Nhưng niềm vui trong lòng tôi vào một ngày đầu xuân nắng đẹp thôi thúc tôi không thể làm khác. Lời hai quay lại:

"Bao ngày, năm với tháng cách xa quê nhà ta yêu dấu mãi từ lâu

Lên rừng ta vui với cây, với lá, cùng với tiếng suối trong ngàn lau..."

Đoạn hai, chuyển điệu sang Rê trưởng, tươi sáng

"... Mong sao ngày mai, nhân dân vui trong tiếng hò

Tô bao lòng trai, cùng mừng cuộc đời tự do

Tiếng hát lên cao trào:

"Ta vui ngày mới phấp phới dưới ánh cờ hồng

Xuân sang tràn lan, hòa bình vui khắp non sông!"

Bài hát hoàn thành ngay trong  ngày mồng một Tết năm ấy. Về đến trung đoàn, lo xây dựng đội tuyên truyền với các anh Tuyến, anh Xuân Lư, anh Lê Lự, (thời chống Mỹ tham gia đoàn văn công Giải phóng Trị Thiên, về hưu ở Thanh Hóa và đã mất vì đau tim gần mười năm rồi). Cùng anh Thắng...nên không có điều kiện dựng bài "Xuân rừng". Phần khác bài hát hơi khó hát, tiết tấu hơi xa lạ, nên anh em cũng không ủng hộ nhiệt tình.

Hòa bình năm 1954, cùng với bài "Gặp nhau dưới trăng" Ban ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam giới thiệu trên sóng. Chị Minh Đỗ và Thanh Hiếu hát "Gặp nhau...", tôi đệm sáo, chị Thái Thị Sâm đệm Pianô. Sau thu đĩa, anh Nguyễn Hữu Hiếu phối âm, chị Thương Huyền và Mai Hanh hát.

Riêng ban nhạc đài có đem hai bài ra phối theo điệu Rumba và Bôlôrô tập chơi vui với nhau.

Ôi! Thời gian nửa thế kỷ đã qua! Ở cái tuổi gầm tám mươi, ngồi nhớ lại những kỷ niệm xưa. Gần đây, xem bộ phim tài liệu về Ba Lòng, tôi không khỏi ngậm ngùi nhớ về những đồng đội, đồng chí đã đi xa, những người bạn học như anh Nguyễn Quán, anh Lê Thanh Ban, anh Nguyễn Vược, anh Đỗ Xuân Bảng đã nằm lại ở mảnh đất này, một mảnh đất đã từng là thủ đô của cuộc kháng chiến chống Pháp gọi là Bình Trị Thiên khói lửa.

Xin cho tôi thắp nén nhang nhớ về những đồng đội, những người bạn ấy và cũng mong một một ngày nào đó, Ba Lòng sẽ được công nhận là di tích lịch sử kháng chiến chống Pháp như mảnh đất Củ Chi anh hùng ở miền Nam thời chống Mỹ.

Một đêm mùa thu ở Hà Nội 2003

          M.H

Mạc Huy
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 115 tháng 04/2004

Mới nhất

Hòn ngọc Bali giữa biển xanh

30/04/2024 lúc 17:44

 Người Việt đi du lịch Bali, hầu như chỉ biết đến những bãi tắm xa

Tự do xanh quá, mênh mông quá

30/04/2024 lúc 04:11

Thơ ca không phải là ghi chép lại lịch sử nhưng lịch sử qua thơ mang một vẻ đẹp bất ngờ và độc đáo không thể hình dung hết. Tuy nhiên, để làm được điều đó, thi sĩ phải thực sự tài năng và có cơ hội tiếp cận được hiện thực lộng lẫy trong những thời khắc có một không hai của lịch sử. Hai mươi năm đánh trận trường kỳ, cả dân tộc không đêm nào ngủ được, cả dân tộc hành quân ra trận, cả dân tộc đội triệu tấn bom để hái mặt trời và có ngày Chiến thắng 30 tháng tư năm 1975, cũng là ngày mở ra cánh cửa hòa bình, thống nhất non sông cho đất nước.

Trên đất đồi đã thôi thuốc súng

28/04/2024 lúc 16:38

Để thấy sự hồi sinh của một vùng đất, đôi khi phải làm khách vãng lai quan sát. Nhận ra

Mùa hoa chêng đỏ

28/04/2024 lúc 16:33

Chưa bao giờ chêng nghĩ mình là một loài hoa được nâng niu, chiều chuộng, cũng không mơ được

Trận pháo kích Cứ điểm 241

28/04/2024 lúc 16:31

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ, miền

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

04/05

25° - 27°

Mưa

05/05

24° - 26°

Mưa

06/05

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground