Đ |
ã 32 năm trôi qua rồi còn gì. Biết bao sự kiện, biến cố thăng trầm của đất nuớc và cuộc đời mà bản thân tôi cũng như hàng ngàn học sinh thầy cô giáo cũ trường cấp III khu vực Vĩnh Linh trước đây vẫn khắc sâu, ôm ấp trong tâm trí những kỷ niệm vừa thân thương vừa vô cùng cao quý. Đó là cái chết vì học sinh của thầy giáo Lê Duy Minh. Một trong những giáo viên giỏi toàn miền Bắc đầu tiên được Bác Hồ tặng bằng khen và huy hiệu của Người. Một trong những nhà giáo - liệt sĩ đầu tiên của ngành giáo dục, hy sinh trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt nhất và quang vinh nhất của dân tộc.
Còn nhớ sáng hôm ấy ngày 8.2.1965, nhằm ngày mồng bốn tết âm lịch. Đám học sinh chúng tôi hồ hởi cắp sách trở lại mái trường thân thương sau mấy ngày nghỉ tết. Trong giờ sinh hoạt lớp đầm ấm đầu xuân mới, thầy giáo chủ nhiệm Lê Duy Minh vừa buớc vào phòng học, cả lớp 10B chúng tôi đứng dậy chúc mừng thầy. Thầy cảm động, phấn chấn đón nhận bó hoa tươi thắm do Đặng Hương, Bí thư chi đoàn thanh niên Lao Động, Nguyễn Xuân Thảo lớp trưởng và tôi lớp phó học tập (hay mặt tập thể lớp dâng lên tặng thầy. Thầy chân thành cảm ơn và chúc cả lớp một năm mới sức lực, trí tuệ dồi dào, phấn đấu đạt kết quả cao trong năm học cuối cùng ở trường phổ thông. Do ngồi ở bàn đầu, nhìn kỹ tôi phát hiện thấy gương mặt thầy có vẻ hốc hác, làn da hơi tái xanh và dáng điệu khác trước. Tôi mạnh dạn đứng dậy lễ phép hỏi:
- Thưa thầy, hình như trong mấy ngày tết vừa qua thầy có bị ốm đau gì ạ?
Thầy mỉm cười rồi dịu dàng trả lời chúng tôi, rằng đúng là thầy vừa trải qua một cơn bệnh nặng. Qua tâm sự, chúng tôi biết cái tết năm ấy về sum họp đón xuân cùng gia đình ở miền Tây Quảng Bình, thầy bị cảm cúm từ hôm 28 tết. Chị Kính vợ thầy ân cần chăm sóc, thuốc thang chu đáo, sáng mồng hai tết bệnh tình mới có phần thuyên giảm. Nhưng tối ấy thầy nhận được bức điện khẩn. Thầy hiệu phó Trần Đình Kham báo tin cho thầy biết là các thầy cô dạy văn của trường như thầy Khuân, thầy Long, cô Mai đều đau ốm cả. Thế là thầy quyết định sáng mồng ba vào để kịp mồng bốn lên lớp giảng dạy, không bỏ trống những giờ ngữ văn đầu năm mới. Mặc bố mẹ, vợ con can ngăn thầy vẫn một mực từ giã ra đi. Chị Kính và bé Hoài (con gái thầy) tiễn đưa thầy ra bến xe, xe sắp lăn bánh rồi mà mẹ con vẫn còn đứng khóc mãi như kiểu biệt ly không bao giờ gặp lại...
Đến đây gọng thầy nghèn nghẹn. Cả lớp chúng tôi bùi ngùi xúc động, lòng chan chứa tình thương yêu và cảm phục, quý trọng người thầy vừa tài hoa, nhân hậu, tất cả chỉ vì học sinh. Nhiều bạn như Hường, Nhạn, Hòa, Thủy, Mai, Thảo, Thạch, Thanh... đã lén cúi xuống bàn lau nuớc mắt. Vào giờ văn, theo đúng chương trình đã phân bổ, thầy giảng bài “Than Quỳnh Nhai”. Mãi cho đến hôm nay tôi còn nhớ hai câu thơ mở đầu:
Một gánh càn khôn quảy xuống ngàn
Hỏi rằng chi đó? Gửi rằng: Than.
Ngoài sức tưởng tưởng tượng của chúng tôi, thầy gần như dốc sức, dốc lòng vào việc phân tích hình giải. Tuy giọng nói khàn khàn, không được âm vang, thanh trong như trước nhưng vẫn ấm áp, ngọt ngào. Càng cảm mến, quý phục thầy cả lớp càng chăm chú nghe như nuốt từng tiếng, từng lời, từng ý, từng câu và hào hứng sôi nổi phát biểu ý kiến xây dựng bài. Tất cả như để thầy vui lòng, một nghĩa cử đồn đáp và nào có ai biết được rằng đấy là tiết học cuối cùng, những giây phút cuối cùng của đời thầy, truyền đạt, bình giảng văn chương với chúng tôi.
Sau bốn tiết dạy (giờ của mình và dạy thay cho đồng nghiệp), bước về phòng riêng thầy đã mê mệt, bỏ bữa cơm thân mật đầu xuân do công đoàn nhà trường chiêu đãi. Chị cấp dưỡng nấu bát cháo hành đưa lên, nài ni động viên mãi thầy cũng chỉ gắng gượng ngồi dậy húp qua loa vài muỗng cháo. Chúng tôi tỏa ra đi tìm lá sả, lá bưởi, chanh, cam... nấu nồi nuớc xông. Quá trưa, khi thầy đã thiêm thiếp ngủ, chúng tôi vội tản về nhà ăn cơm, chiều tiếp tục đến săn sóc sức khỏe của thầy. Đúng 2 giờ 30 chiều mồng bốn tết hôm ấy, lũ quạ sắt bất ngờ ập đến. Nhiều tốp máy bay AD7, phản lực tập kích vào thị trấn Hồ Xá và các vùng lân cận. Trường cấp III Vĩnh Linh, nơi mà trung tướng Nguyễn Cao Kỳ trực tiếp chỉ huy lực lượng “không lực liên quân Mỹ Việt” mệnh danh là "lò đào tạo việt cộng đầu sỏ cho miền Nam” cũng không nằm ngoài tọa độ lửa. Đang ốm nằm mê man, thầy Minh bừng tỉnh bởi tiếng gầm rú của máy bay, tiếng rít nổ của bom đạn. Như có một sức mạnh thần kỳ nào đó, thầy chụp vội khẩu súng, chạy ngay ra vị trí chiến đấu. Lần đầu tiên bị máy bay đánh phá, nhìn thấy học sinh khối 8 học ca chiều nháo nhác, thầy liền chạy đến hướng dẫn từng tổ lớp chạy theo hào giao thông thoát ra hầm trú ẩn đào sẵn phía sân bóng sau trường. Và khi trở lại dìu dắt nhóm học sinh cuối cùng, chùm ba quả bom tấn rơi chụp xuống nổ tung, vùi lấp tất cả thầy trò. Mặc cho bom rơi đạn nổ thầy trò chúng tôi khẩn trương đào bới, kiếm tìm. Mãi đến gần nửa đêm chúng tôi mới tìm được thi thể thầy vùi sâu trong ngách chiến hào, đang đang tay như muốn ôm chầm, chở che bom đạn cho tốp học sinh khối 8. Chiếc áo màu xanh hòa bình thây thầy mặc nhuộm đẫm máu, một màu đỏ thắm tươi đến nao lòng.
Thế là ngay trong trận đánh phá hủy diệt Vĩnh Linh đầu tiên, kẻ thù đã cướp đi người thầy kính yêu. Đêm hôm sau, hàng nghìn giáo viên, học sinh, phụ huynh và cán bộ nhân dân Vĩnh Linh đã tổ chức lẽ truy điệu trọng thể, tiễn đưa thầy cùng bảy em học sinh về nơi an nghi cuối cùng. Nhiều người đã nức nở khóc khi điếu văn nhắc đến lòng quả cảm, sự tận tụy quên mình, sự sống hay cái chết, tất cả ở thầy đều vì học sinh thân yêu.
Bài giảng “Than Quỳnh Nhai” của thầy còn dang dở. Thầy đã ra đi về nơi cõi vĩnh hằng không kịp nói một lời trối trăng, vĩnh biệt. Một tuần sau, thầy giáo Nguyễn Gia Linh, giảng viên trường Đại học Sư phạm Vinh tình nguyện vào tuyến lửa Vĩnh Linh công tác giảng tiếp cho chúng tôi. Trong nỗi đau mất mát và nỗi thương tiếc thầy vô hạn, chẳng thể nào nguôi.
N.X.P