Như một lẽ thường xưa nay, khi trong làng có người chết. Mọi người, bất kể có bà con họ hàng hay không, tất cả đều tập trung lại, cùng với gia đình lo hậu sự cho người quá cố. Đối với ông Tòng cũng vậy. Người ta có mặt ngay từ lúc thi thể ông được đưa từ ngoài đồng về. Rồi thì mỗi người một tay, người lo việc này, kẻ làm việc kia. Mọi việc đều trôi chảy cả. Duy chỉ có một điều khiến ai cũng băn khoăn, nghĩ tới nghĩ lui. Đó là bây giờ không biết chôn ông Tòng ở đâu? Câu hỏi thật lạ! Ai chẳng biết người chết thì chỉ có một cách duy nhất là đem ra nghĩa địa. Làng nào lại không có nghĩa địa, không có bãi tha ma. Không lẽ cái làng Bùng này hết đất chôn người chết rồi sao? Mà lại lo không biết chôn ông Tòng ở đâu!
Không phải làng Bùng hết đất. Cũng không phải làng Bùng không có nghĩa địa hay bãi tha ma để chôn người chết. Mà không biết chôn ông Tòng ở đâu, người ta lo lắng, người ta băn khoăn cũng có nguyên nhân của nó.
Chẳng biết từ bao giờ, ở vùng quê này, có một tập tục rất lạ, ấy là xưa nay, nếu có ai đó không may bị chết vì sét, thì lập tức người chết đó liền được gia đình an táng ngay trong vườn nhà, để tiện cho việc gìn giữ phần mộ. Sở dĩ có chuyện này là vì có một câu chuyện đã từ rất lâu rồi được lưu truyền trong dân gian. Rằng, người nào chết vì sét thì thi thể họ sẽ rất… thiêng. Thiêng đến mức cái xương sọ của người chết vì sét ấy có thể có tác dụng như một chiếc… la bàn. Bọn trộm cắp chuyên nghiệp, nếu có trong tay một chiếc xương sọ của người chết vì sét, thì hành nghề trộm cắp ở đâu cũng trót lọt. Nghe đâu, trước khi đi ăn trộm, bọn chúng chỉ việc đặt chiếc xương sọ ấy lên bàn thờ, thắp hương vái. Khi vái, chiếc xương sọ ấy sẽ tự động quay. Nếu mặt sọ quay về hướng nào thì kẻ trộm đi về hướng ấy. Và nhất định chúng sẽ ăn trộm được nhiều, lại an toàn, không sợ bị phát hiện.
Minh họa: Ngô Xuân Khôi
Lại nghe đồn rằng, xưa kia ở làng bên, có một gã đàn ông tên Đô, chuyên nghề ăn trộm cũng nhờ có một cái xương sọ của người chết vì sét. Gã Đô nhờ vậy mà giàu lên nhanh chóng. Trong nhà gã không thiếu một thứ gì, còn bọn nhà giàu thì của cải cứ mất dần. Bởi, Đô đã quyết ăn trộm của ai, ở đâu, ăn trộm cái gì, thì đều được. Vàng bạc, tiền của, đồ trang sức… của bọn địa chủ, nhà giàu, đều bị gã ăn trộm hết. Chúng biết chắc chắn rằng Đô là thủ phạm, nhưng không bắt được quả tang, nên không làm gì được. Cuối cùng, chúng phải bày mưu tính kế, đợi đêm đến, Đô ngủ say trong nhà, chúng cho tay chân chặn hết các cửa, rồi đổ xăng đốt. Cả nhà gã cùng với chiếc sọ người, trong lần ấy đã bị hóa thành than.
Chuyện về chiếc xương sọ của người chết vì sét, và cả chuyện về gã Đô nào đó không rõ thực hư ra sao. Nhưng ai cũng đã ít nhất một lần được nghe kể lại. Để rồi sau này, mỗi khi ở làng Bùng, hay ở các làng lân cận, không may có người bị chết vì sét, thì người ta đều chôn người chết trong vườn nhà. Chôn ở nghĩa địa, gia chủ ai cũng lo sợ người thân của mình bị kẻ xấu khai quật lấy mất xương sọ để hành nghề ăn trộm. Thói quen này đã có từ lâu lắm rồi. Không những ở làng Bùng, mà làng nào cũng vậy. Thế nên, hễ ai không may bị sét đánh chết đều được chôn ở vườn nhà. Vườn rộng cũng chôn. Vườn hẹp cũng chôn. Chả ai dám chôn ở nghĩa địa hay bãi tha ma.
Đấy, thì như ở làng Bàu, mấy năm về trước có tới bốn người bị sét đánh chết, thì cả ba người đều được gia đình chôn ngay trong vườn. Đất thổ cư làng ấy hẹp lắm! Nghe đâu mỗi hộ chỉ được có mấy trăm mét vuông. Nhà ở, bếp núc, rồi công trình vệ sinh… cũng đã chiếm quá nửa số diện tích ấy. Ấy vậy mà khi không may có người thân bị chết vì sét, người ta cũng chôn cho bằng được người chết trong vườn. Vì thế mà có những ngôi mộ nằm ngay cạnh cổng ra vào, nằm ngay dưới gốc cây ăn quả. Lại có những ngôi mộ nằm sát sạt ngay bên cạnh giếng nước hay bậc tam cấp lên xuống nhà ở.
Còn ở làng Bùng này, tính đến nay, kể cả ông Tòng, thì đã có tất cả ba người bị chết vì sét. Hai người trước phần mộ đều được tọa lạc ngay bên cạnh nhà ở. Bây giờ đến lượt ông Tòng, chắc cũng phải vậy thôi. Chứ không lẽ lại đem ông ấy ra nghĩa địa, rồi lỡ cái bọn bất lương ấy nó khai quật, cắt cụt đầu ông thì làm sao. Ai đứng ra chịu trách nhiệm cho. Mà xưa nay, làng đã có tục lệ vậy rồi. Đã là tục lệ của làng thì cứ thế mà chấp hành. Phép vua thua lệ làng. Người xưa cũng đã nói thế. Chính quyền, từ tỉnh, huyện, xã… chẳng ai can thiệp đến chuyện ấy. Có bao giờ người ta có ý kiến gì đâu. Vả lại, cán bộ thì phải làm gương. Chứ như ông Tằng, cán bộ xã, có em trai ruột là ông Bằng, làm cán bộ hải quan bị sét đánh chết, cũng được đưa về an táng ở vườn cha mẹ đẻ. Như thế sao gọi là làm gương được, nói ai nghe cho.
Người làng Bùng băn khoăn không biết chôn ông Tòng ở đâu cũng còn một nguyên nhân khác nữa. Chả là đầu năm vừa rồi, làng Bùng phát động phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa. Trong hương ước của làng, có một điều khoản được người dân đồng tình rất cao, đó là từ nay không ai được chôn người chết trong vườn nữa. Kể cả người không may chết vì sét. Phải chôn ở nghĩa địa. Phải xóa bỏ cho bằng được một tập tục lạc hậu đã ăn sâu vào nếp nghĩ của mỗi người dân từ bao đời nay. Tuy nhiên, đó mới chỉ là lý thuyết. Còn trong thực tế, thật không dễ chút nào. Cứ nghĩ đến cái lúc thân nhân của mình bị kẻ xấu khai quật mộ, cắt mất… thủ, thì ai chẳng lo lắng, ai chẳng sợ hãi. Với lại, ông Tòng là người đầu tiên bị chết vì sét, được đưa ra nghĩa địa. Liệu gia đình người ta có đồng ý chấp nhận không? Chắc gì người ta đồng ý cho dễ dàng thế.
Thì đúng thế thật! Khi ban lễ tang đưa ra ý kiến bàn bạc, liền bị những người trong gia đình ông Tòng phản đối quyết liệt. Từ anh em ruột thịt, con chú bác cậu dì… không một ai đồng ý. Căng nhất là mấy người con của ông Tòng. Và nhất là người con trai cả. Anh ta vốn là bộ đội đặc công phục viên, giỏi võ, nhưng giống cha, hiền như đất, ấy thế mà khi nghe ban lễ tang đưa ra ý kiến chôn cha anh ở nghĩa địa, anh đã chồm lên kịch liệt phản đối. Anh nói rằng, những người trước chôn trong vườn được, thì cha anh cũng chôn trong vườn được. Quy ước xây dựng làng văn hóa, mặc kệ quy ước. Làng có đứng ra đảm bảo an toàn cho thi thể của cha anh năm này qua năm khác được không? Anh nhất quyết không chịu. Đến đâu thì đến, anh nhất định an táng cha anh trong vườn. Anh còn nói thêm, nếu ai cản trở hoặc xúc phạm đến thi thể cha anh, anh sẽ cho nếm mùi… đặc công!
Khiếp quá! Nói vậy thì ai còn dám bàn bạc gì nữa. Nhà người ta đã kiên quyết thế rồi, có bàn trời bàn đất gì cũng đâu mang lại kết quả. Không chừng còn bị cái anh lính đặc công ấy cho ăn… đòn thật thì gay to. Nghĩ thế nên ban lễ tang không có ý kiến gì nữa.
Chi bộ, ban quản lý thôn phải nhóm họp khẩn cấp. Mời cả lãnh đạo xã về dự, chỉ đạo. Ai cũng cho rằng đây là việc nhạy cảm, nên không thể áp đặt hay đưa ra bất cứ một mệnh lệnh nào được. Việc ma chay là một việc tế nhị, nó động chạm tới nhiều vấn đề, nên cần phải hết sức thận trọng. Cái chính là phải phân tích cho gia đình thấy những chuyện xưa nay về chiếc xương sọ chỉ là chuyện nhảm nhí, đồn đại, để họ không còn tin nữa. Rồi phải nhẹ nhàng động viên, thuyết phục, để họ tự nguyện. Nhất định phải làm được việc đó. Nếu không sau này sẽ trở thành một tiền lệ, rồi đâu lại vào đấy, như trước kia, khi chưa phát động xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa. Nói thì dễ vậy. Nhưng khi mọi người đến gặp người con trai cả thì anh ta bác bỏ. Anh ta nhất quyết chôn cha mình trong vườn. Và anh đã cho người đào sẵn huyệt. Vậy là chẳng còn nước non gì nữa. Thôi, đành để gia đình họ làm theo ý mình.
Nhưng đúng cái đêm cuối cùng để sáng sớm mai đưa tang, thì người con trai cả thay đổi ý kiến. Anh gặp ban lễ tang xin được an táng cha anh ở nghĩa địa của làng. Sự việc bỗng nhiên quay ngoắt một trăm tám mươi độ, khiến ai cũng lấy làm ngạc nhiên. Anh nói rằng, đó không phải là quyết định của riêng anh, mà là của cả gia đình, dòng họ, sau khi đã bàn bạc, thống nhất. Nhưng chính anh là người đầu tiên đưa ra ý kiến này để cả họ hàng cùng bàn bạc. Anh nói rằng, anh đã suy nghĩ suốt cả chiều qua cho đến tận nửa đêm. Anh đã đấu tranh với chính mình ghê gớm lắm, để rồi ngay sau đó, đúng lúc gà gáy canh ba, anh đã thức dậy “triệu tập” cuộc họp gia đình ngay giữa đêm khuya, đưa ra ý kiến của mình. Anh đã phân tích, giảng giải, thuyết phục được cả gia đình. Anh cho rằng, anh là đảng viên, lại là người từng được thử thách, rèn luyện trong quân đội, anh không thể tin vào những chuyện nhảm nhí đó được. Gia đình anh phải làm gương cho làng Bùng này noi theo. Không thể để một ngôi làng mà mỗi gia đình từng có công trong hai cuộc kháng chiến, từng nhịn ăn nhịn mặc, chấp nhận chết chóc, tù đày nuôi giấu cán bộ, góp phần làm nên chiến thắng. Và ngày nay, cũng ngôi làng này, mọi người, mọi nhà đang tảo tần làm ăn, vật lộn với đất đai, đẩy lùi đói nghèo, vươn lên làm giàu, lại có thể tiêm nhiễm một thói xấu đến độ “lau không đi, kỳ không sạch” là chôn người chết trong vườn. Làng lại đang phát động phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, không thể chấp nhận việc làm thiếu văn hóa ấy được. Phải loại bỏ tập tục không lành mạnh này ra khỏi đời sống xã hội. Anh và gia đình sẽ là những người đi “tiên phong” trong việc này. Còn việc đảm bảo an toàn cho phần mộ của cha anh, anh sẽ tự giải quyết. Nếu đúng có những kẻ bất lương chuyên rình mò khai quật lấy cắp xương sọ người chết, để hành nghề bất lương như tin đồn, thì anh, với từng ấy năm lăn lộn trong quân ngũ, anh sẽ bắt chúng phải đền tội.
* * *
Ông Tòng mất đã được năm năm. Và cũng trong năm năm ấy ở làng Bùng chẳng còn có trường hợp nào chôn người chết trong vườn như trước đây nữa. Cả các làng lân cận cũng vậy, chẳng còn ai tin vào câu chuyện nhảm nhí ấy nữa. Ai cũng bảo, được vậy là nhờ con cháu ông Tòng đã làm gương phá bỏ một tập tục lạc hậu cho cả làng cả xã noi theo. Mặc dù, chỉ mới năm ngoái năm kia thôi “ông trời” lại “bắt” đi của các làng thêm hai mạng sống nữa. Nhưng cũng như ông Tòng, những người quá cố đều được gia đình đưa ra chôn cất ở nghĩa địa. Cũng trong năm năm ấy ông Tòng an nghỉ trên một quả đồi cạnh làng. Năm năm trôi qua rồi mà chẳng có chuyện gì xảy ra. Mộ ông vẫn bình an, vô sự. Ông nằm đó, giữa một thiên nhiên đất trời tươi đẹp. Một bên là cánh đồng làng quanh năm lúa ngô xanh tốt. Một bên là dòng sông rì rào sóng vỗ. Và xa xa kia là chân trời đỏ rực mỗi bình minh đến, và vàng rộm những tia nắng khi hoàng hôn về. Mỗi năm, khi tiết thanh minh vừa xong là đất trời rền vang tiếng sấm. Những tiếng sấm đầu mùa. Sau đó là những trận mưa. Mưa ào ào một lúc thật to rồi tạnh. Sau mưa là nắng. Nắng hửng lên, để rồi sau đó tràn trề những nắng là nắng. Đẹp vô cùng! Cây cối thi nhau đâm chồi nảy lộc. Đồng lúa nhúc nhích, cựa quậy làm đòng. Những phiến đá trên mộ ông Tòng cũng trở nên nhẵn bóng, óng ánh vàng tươi, sau mỗi lần vang lên tiếng sấm đầu mùa.
Bài in số Chuyên đề 17+18