Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 07/05/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Bốn bài viết nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Cần, Kiệm, Liêm, Chính

TCCV Online - Giữa năm 1949, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở Vào giai đoạn gay go, ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh, với bút danh Lê Quyết Thắng, viết 4 bài báo nổi tiếng đăng Báo Cứu Quốc: “Thế nào là Cần”, đăng ngày 30 - 5 - 1949; “Thế nào là kiệm”, đăng ngày 31 - 5 - 1949; “Thế nào là Liêm”, đăng ngày 1 - 6 - 1949; “Thế nào là Chính”, đăng ngày 2 - 6 - 1949 (Xem cuốn “Hồ Chí Minh – Về vấn đề giáo dục”, Nxb Giáo dục, Hà Nội - 1990, Từ trang 80 đến 91). Vì sao Bác Hồ đề ra khẩu hiệu: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”? Vì Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua ái quốc. Tư tưởng của Bác Hồ về Cần – Kiệm – Liêm – Chính trong 4 bài báo ấy, đến nay vẫn còn nguyên giá trị nhân văn và tính thời sự nóng hổi, rất bổ ích, thiết thực đối với mỗi cán bộ – đảng viên và toàn dân.

Trong việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua Tuần Báo Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, Xin giới thiệu về 4 bài viết nổi tiếng nói trên của Bác.

Bài 1:                  

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chữ “Cần”

Bài “Thế nào là Cần” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với bút danh Lê Quyết Thắng, đăng báo Cứu Quốc, ra ngày 30/5/1949. Đây là bài đầu tiên trong số 4 bài viết liên hoàn, nổi tiếng của Bác về Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Mở đầu bài viết này, Bác Hồ giải thích ngay về chữ “Cần”:Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai”. Bác diễn giải thêm: “Người Tàu có câu: Không có việc gì khó, chỉ e ta không siêng./ Tục ngữ ta có câu: Nước chảy mãi, đá cũng mòn. Kiến tha lâu, cũng đầy tổ./ Nghĩa là Cần thì việc gì, dù khó mấy, cũng làm được”. Rồi Bác nói cụ thể hơn về chữ “Cần”, bằng những câu văn rất ngắn gọn, lời lẽ giản dị như cách nói của quần chúng, ý nghĩa rất rõ ràng: “Dao siêng mài thì sắc bén. Ruộng siêng làm thì có lúa tốt…/ Siêng học tập thì mau tiến./ Siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến./ Siêng làm thì nhất định thành công. Siêng hoạt động thì sức khỏe./ Điều đó cũng rất dễ hiểu”. Và Bác mở rộng ý nghĩa của chữ “Cần”, với những nội dung thiết thực: “Chữ Cần chẳng những có nghĩa hẹp, như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai. Nó lại có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần./ Người siêng năng thì mau tiến bộ./Cả nhà siêng năng thì chắc no ấm./ Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh./ Cả nước siêng năng thì nước giầu mạnh”.

Không phải chỉ riêng cần cù, siêng năng mà đã làm tốt được các công việc; Cần phải gắn liền với các điều khác mới đạt kết quả tốt. Để chữ Cần có nhiều kết quả hơn, Bác dạy là phải có kế hoạch cho mọi công việc, nghĩa là: “phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng”. Ở đây, Bác không dùng từ “tư duy”, không dùng khái niệm “tính khoa học”, mà diễn giải hai điều ấy một cách rất cụ thể, dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức của đại đa số cán bộ – đảng viên và nhân dân lúc bấy giờ. Bác nêu một thí dụ: “Người thợ mộc muốn đóng một cái tủ. Trước hết, anh ta mài sẵn cưa, bào, tràng, đục, vân vân, và sắp xếp có thứ tự hẳn hoi. Rồi anh ta lấy gỗ vừa đủ làm cái tủ. Khi các thứ đều sẵn sàng, anh ta bắt tay vào việc đóng tủ./ Như thế là anh thợ mộc ấy làm việc có kế hoạch. Như thế là anh ấy không hao thì giờ, tốn lực lượng (tức là sức lực – ĐNĐ), mà việc lại mau thành. Nếu anh ấy không sắp đặt sẵn sàng trước, khi cần đến cưa mới chạy đi tìm cưa, khi cần đến đục thì phải chạy đi tìm đục. Như vậy thì mất công chạy lăng xăng cả ngày, mà công việc làm được thì ít”. Từ thí dụ ấy, Bác kết lại: “Việc to, việc nhỏ, muôn việc đều như vậy./ Vì vậy, siêng năngkế hoạch phải đi đôi với nhau”.

Nâng thêm một bước về mối quan hệ của chữ “Cần” với các vấn đề liên quan, Bác viết: “Kế hoạch lại phải đi đôi với phân công./ Trong một gia đình, một xưởng máy, một đoàn thể, một cơ quan, vân vân… đã có kế hoạch, lại phải phân công cho khéo./ Phân công nhằm vào 2 điểm: 1- Công việc: Việc gì gấp thì làm trước. Việc gì hoãn thì làm sau./ 2- Nhân tài: Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào việc ấy./ Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao cho việc thợ rèn, người giỏi nghề thợ rèn thì giao cho việc thợ mộc, như thế thì hai người đều thất bại cả hai”. Bác diễn giải những điều trừu tượng, khó hiểu bằng những ví dụ cụ thể, dễ hiểu, với cách nói rất dí dỏm, rất vui, nên người đọc dễ tiếp nhận.

Mặt khác, “Cần” không thể tách rời với chuyên. Bác nêu rõ: “Cần và chuyên phải đi đôi với nhau. Chuyên nghĩa là dẻo dai, bền bỉ. Nếu không chuyên, nếu một ngày Cần mà mười ngày không Cần, thì cũng vô ích”. Bác căn dặn: “Cần không phải làm xổi. (…). Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời. Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc cho lâu dài”.

Đến đây, Bác lập luận lật ngược lại vấn đề, để bàn sâu hơn về chữ Cần: “Lười biếng là kẻ địch của chữ Cần./ Vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc./ Một người lười biếng, có thể ảnh hưởng tai hại đến công việc hàng nghìn, hàng vạn người khác”. Từ nhận định khái quát ấy, Bác nêu ra hai thí dụ về sự cần cù, hợp lòng hợp sức của mọi người, sẽ tạo nên thành công. Đây là một trong hai dẫn chứng của Bác: “Toàn dân tộc ta đoàn kết thành một khối. Công việc của mỗi người, mỗi địa phương, mỗi ngành đều phối hợp với nhau, như một chuyến xe lửa. Tất cả mọi người, mọi địa phương, mọi ngành đều cố gắng, đều siêng năng, thì nước ta sẽ tiến bộ rất nhanh chóng. (…). Nếu có một người, một địa phương hoặc một ngành mà lười biếng, thì khác nào toàn chuyến xe chạy, mà một bánh trật ra ngoài đường ray. Nó sẽ làm chậm trễ cả chuyến xe”. Rồi Bác kết luận: “Vì vậy, lười biếng là có tội với đồng bào, với Tổ quốc”.

Ngày nay, đọc lại bài viết của Bác Hồ, ta thấy tư tưởng của Bác về chữ “Cần” vẫn tươi mới, hết sức quan trọng và bổ ích với tất cả chúng ta. Bác đề ra một chủ trương lớn, một vấn đề trọng đại đối với đất nước và dân tộc, là tất cả mọi công dân – bất kỳ ở cương vị nào và làm nghề nghiệp gì, đều phải cần cù, siêng năng làm tốt công việc, làm tốt nhiệm vụ của mình. Thật vậy, muốn mọi gia đình phồn vinh, đất nước phát triển bền vững, tiến tới văn minh, giầu mạnh, để đàng hoàng hội nhập tích cực với thế giới, thì trước hết, mọi người đều phải cần cù, siêng năng làm việc, làm việc suốt đời và có tính khoa học, để đạt những hiệu quả cao, đem lại những điều ích nước, lợi nhà. Đi đầu trong việc này, tất yếu phải là các cán bộ – đảng viên.

Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 461

Bài 2:

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chữ “Kiệm”

Bài viết “Thế nào là Kiệm”, Bác Hồ cũng vào đề trực tiếp. Mở bài, Bác đặt câu hỏi và giải thích ngay: “Kiệm là thế nào?/ Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”. Bác nêu mối quan hệ mật thiết và tác động hỗ trợ lẫn nhau giữa CầnKiệm: “Cần với Kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người./ Cần mà không Kiệm, thì “làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng không có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra chừng ấy, không lại hoàn không./ Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà vật gì đã không tiến tất phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt”.

Tiếp đó, Bác nêu ra cách thức tiết kiệm, bằng lối đặt câu hỏi: “Tiết kiệm cách thế nào?”. Để trả lời, Bác kể một câu chuyện: “Hồ Chủ tịch đựng một cái phong bì 2, 3 lần. Cụ nói: “Trung bình một cái phong bì là 18 phân vuông giấy (0,018 m2)./ Mỗi ngày, các cơ quan, đoàn thể và tư nhân trong nước ta ít nhất cũng dùng hết một vạn cái phong bì, tức là 180 thước vuông giấy. Mỗi tháng là 5.400 thước vuông. Mỗi năm là 64.800 thước vuông giấy./ Nếu ai cũng tiết kiệm, dùng một cái phong bì 2 lần, thì mỗi năm chỉ tốn một nửa giấy, tức là 32.400 thước vuông. Còn 32.400 thước vuông giấy thì để dành cho các lớp Bình dân học vụ, chẳng tốt lắm sao?/ Hơn nữa, nhờ sự tiết kiệm giấy, mà tiền bạc và công phu làm giấy có thể thêm vào việc kiến thiết khác, thì càng ích lợi hơn nữa (…). Đối với giấy như thế, đối với mọi thứ vật liệu khác, của cải khác, đều như thế””.

Ngày nay, các bạn đọc – nhất là các bạn trẻ, cần hiểu rằng: Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và ngay cả những năm sau khi Hòa bình lập lại (tháng 7/1954), ở miền Bắc nước ta, giấy hiếm lắm, quý lắm, quý như cơm gạo, vàng bạc, mà chỉ toàn là giấy hẩm, giấy đen, giấy mỏng, giấy bở, do ta sản xuất bằng lối thủ công, lạc hậu, làm sao mà có được nhiều giấy và giấy đẹp, giấy tốt (cả giấy nội, giấy ngoại) như bây giờ.

Bác không chỉ nêu việc tiết kiệm các loại vật liệu, của cải, Bác còn căn dặn phải tiết kiệm cả thời giờ: “Thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải”. Bởi vì: “Của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ đã qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được”. Bác nói rõ về cách tiết kiệm thời giờ: “Muốn tiết kiệm thời giờ, thì việc gì ta cũng phải làm cho nhanh chóng, mau lẹ. Không nên làm chậm rãi, “nay lần mai lữa”. Rồi Bác khẳng định: “Tiết kiệm thời giờ là Kiệm, mà cũng là Cần”.

Về việc tiết kiệm thời giờ, Bác còn dạy cặn kẽ hơn: “Tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người. Không nên ngồi lâu, nói chuyện phiếm, làm mất thời giờ của người khác”. Để tăng sức thuyết phục, Bác dẫn hai câu nổi tiếng: “Thánh hiền có nói: “Một tấc bóng là một thước vàng”/ Tục ngữ Âu nói: “Thời giờ tức là tiền bạc”. Và Bác bình chú thêm: “Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt đi tức là người ngu dại”.

Để cho mọi người hiểu rõ thêm thế nào là Kiệm, Bác lập luận rất kín kẽ, sâu sắc: “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn./ Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù hao bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là Kiệm./ Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, dại dột, chứ không phải là Kiệm”.

Tiếp đó, Bác nhấn mạnh: “Tiết kiệm phải kiên quyết chống xa xỉ”. Bác nói rất cụ thể về việc “xa xỉ” và nghiêm khắc phê phán thói xấu này: “Việc đáng làm trong một giờ, mà kéo đến 2, 3 giờ, là xa xỉ./ Việc đáng tiêu một đồng, mà tiêu 2, 3 đồng, là xa xỉ./ Hao phí vật liệu, là xa xỉ./ Ăn sang mặc đẹp trong lúc nhiều đồng bào đang thiếu cơm, thiếu áo, là xa xỉ./ Ăn không ngồi rồi, trong lúc Tổ quốc đang cần kháng chiến và xây dựng, là xa xỉ”. Và Bác nhận định: “Vì vậy, xa xỉ là có tội với Tổ quốc, với đồng bào”.

Phần cuối bài, Bác nhắc nhở: “Cho nên, muốn tiết kiệm có kết quả tốt, thì phải khéo tổ chức. (…) / Không biết tổ chức thì không biết tiết kiệm”.

Tư tưởng của Bác Hồ về Cần Kiệm thật ra đã xuất hiện từ năm 1927, trong cuốn “Đường cách mệnh” của Người. Lúc bấy giờ, Bác đã nhắc nhở những người cách mạng: “Tự mình, phải: Cần Kiệm”. Đến giữa năm 1949, trên báo Cứu Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu việc tiết kiệm thành một chủ trương lớn có ý nghĩa quốc gia, dân tộc, đồng thời phân tích sâu sắc nội dung và tác dụng to lớn của chữ Kiệm: tiết kiệm tiền bạc, của cải, tiết kiệm thời giờ, tiết kiệm phải đi liền với chống “xa xỉ” (tức là chống lãng phí, xa hoa) và phải “khéo tổ chức” thì mới thực hành được tiết kiệm. Mỗi người, mỗi cơ quan, mỗi ngành và địa phương đều phải biết tiết kiệm, để tập trung mọi nguồn lực phục vụ cho kháng chiến và kiến quốc đi tới thành công. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chữ Kiệm là sự khởi nguồn, đồng thời là nền tảng cho chủ trương “Tiết kiệm là quốc sách hàng đầu” của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Ngày nay, tư tưởng của Hồ Chủ tịch về chữ Kiệm cần phải được toàn Đảng, toàn dân thấm nhuần và thực hiện nghiêm chỉnh; nhất là các cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành, các địa phương phải thực sự làm gương – biểu hiện trong công tác cũng như trong lối sống hàng ngày. Tiết kiệm không phải chỉ trong quá khứ và hiện tại, mà còn lâu dài, mãi mãi về sau. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng lãng phí tiền bạc, của cải, thời giờ của Nhà nước trong các tổ chức, công sở, cơ quan, đơn vị, công ty… đang diễn ra hết sức nghiêm trọng – song hành với quốc nạn tham nhũng nhức nhối. Nhiều cán bộ, đảng viên có chức có quyền sống xa hoa do tham nhũng, cách biệt hẳn với đời sống còn nghèo khổ, vất vả của nhân dân (bao gồm cả các cán bộ, công nhân viên tại chức và nghỉ hưu chỉ trông vào đồng lương ba cọc ba đồng). Điều đó, đang làm nghèo đất nước, kìm hãm sự phát triển của xã hội và gây bất bình trong nhân dân. Thiết nghĩ, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh là mỗi cán bộ – đảng viên phải ghi nhớ và làm tốt lời Bác dạy: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ.(…). Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là cách mạng. (…). Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ”.

(Bài “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” – năm 1952; xem: “Hồ Chí Minh – Toàn tập”, NXB CTQG, Hà Nội – 2000, tập 6, tr.490, 493).

Tuần Báo Văn Nghễ TP.HCM số 462

Bài 3:

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chữ “Liêm”

Bài “Thế nào là Liêm?” đăng báo Cứu Quốc, số ra ngày 1-6-1949. Ngay từ đầu, Bác Hồ giải thích về chữ Liêm rất giản dị, dễ hiểu: “Liêm là trong sạch, không tham lam”.

Chữ Liêm trong quan niệm của Bác Hồ có tính lịch sử: Ngày xưa, Liêm vốn chỉ những người làm quan không đục khoét dân. Chữ Liêm ấy có nghĩa hẹp. Bác Hồ mở rộng nội hàm của chữ Liêm: “Ngày nay, nước ta là nước dân chủ cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn, là mọi người đều phải Liêm. Cũng như Trung là trung với Tổ quốc, Hiếu là hiếu với nhân dân”. Như vậy, theo Bác, đối tượng thực hành chữ Liêm là mọi công dân, bất kỳ ở cương vị nào.

Hồ Chủ tịch bàn về chữ Liêm trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ và biện chứng: Cần – Kiệm – Liêm – Chính. Người viết: “Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần./ Có Kiệm, mới Liêm được, vì xa xỉ mà sinh tham lam”.

Trái với chữ Liêm, là “bất Liêm”. Bác Hồ nêu ra những biểu hiện cụ thể, đa dạng của sự “bất Liêm”: “Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất Liêm./ Người cán bộ cậy quyền thế mà khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư;/ Người buôn bán, mua 1 bán 10, hoặc buôn gian bán lậu, chợ đen chợ đỏ, tích trữ đầu cơ;/ Người có tiền cho vay cắt cổ, bóp hầu bóp họng đồng bào;/ Người có ruộng không ra công đào mương mà lấy cắp nước ruộng của láng giềng;/ Người làm nghề (bất kỳ nghề gì) nhân lúc khó khăn mà bắt chẹt đồng bào;/ Người cờ bạc chỉ mong xoay của người làm của mình;…/ Đều là tham lam, đều là bất Liêm”. Bác Hồ còn chỉ ra những điều “trái với chữ Liêm”: “Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình, là tham danh đạo vị (đạo là trộm) (Bác Hồ giải nghĩa từ Hán – Việt; ĐNĐ ghi chú)./ Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham dật úy lao;/ Gặp giặc mà rụt rè, không dám đánh, là tham sinh úy tử./ Đều trái với chữ Liêm”. Là lãnh tụ tối cao của Đảng và dân tộc, nhưng Bác Hồ rất sâu sát với đời sống của mọi lớp người, hiểu rõ về từng loại người. Bác luôn luôn quan tâm đến mọi vấn đề của đất nước, mọi mặt sinh hoạt trong nhân dân.

Tiếp đó, Bác nhấn mạnh: những điều “bất Liêm” và “trái với chữ Liêm”, đều là tai hại, cần phải nghiêm khắc phê phán, loại bỏ. Bác viết: “Do bất Liêm mà đi đến tội ác trộm cắp. Công khai hay bí mật, trực tiếp hoặc là gián tiếp, bất Liêm tức là trộm cắp”. Hồ Chủ tịch dẫn lời của hai vị hiền triết cổ đại phương Đông: “Cụ Khổng Tử nói: “Người mà không Liêm, không bằng súc vật”./ Cụ Mạnh Tử nói: “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”! Hai câu nói bất hủ này – đối với hiện trạng đất nước ta hiện nay, thật là thời sự nóng hổi, thật là chí lý!

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chữ Liêm làm sáng tỏ và khẳng định một chân lý: Từ xưa đến nay, ai là con người chân chính, lương thiện cũng coi trọng chữ Liêm và căm ghét, khinh bỉ những kẻ “bất Liêm”, làm những điều “trái với chữ Liêm”. Nói cách khác, liêm khiết là một trong những phẩm chất đạo đức cơ bản nhất, tạo nên giá trị đích thực của Con Người (viết hoa)!

Từ đấy, Bác Hồ vạch ra phương hướng hành động và biện pháp khắc phục khuyết điểm, củng cố niềm tin cho mọi người: “Để thực hiện chữ Liêm, cần có tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và phép luật, từ trên xuống, từ dưới lên”. Bác Hồ khích lệ ý thức giác ngộ, tinh thần tự phê bình, tự giáo dục của mỗi người và vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh với những điều “bất Liêm”, “trái với chữ Liêm” đồng thời Người rất coi trọng công tác tổ chức, kiểm soát của các cấp, các ngành đối với cán bộ đảng viên trong việc thực hiện chữ Liêm. Đặc biệt, Bác rất coi trọng vai trò của pháp luật. Đáng chú ý là Bác dùng từ “phép luật”, chứ không dùng từ “pháp luật”. Thiết nghĩ: “Phép luật” vừa là luật pháp, vừa là kỷ cương của một quốc gia. Điều này thể hiện tư duy của Bác cực kỳ thông tuệ và cách nhìn của Bác rất sâu sát thực tiễn! Bởi trong thực tế, có luật pháp không đồng nghĩa là có kỷ cương! “Phép luật” chính là luật pháp được thực thi nghiêm minh – trở thành kỷ cương, phép nước! Đấy mới chính là rường cột tạo nên một xã hội ổn định và phát triển bền vững, tạo nên sự công bằng và văn minh cho một quốc gia, dân tộc!

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu – trước hết cán bộ đảng viên phải Liêm khiết: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công dinh tư”. Và Bác nhấn mạnh: “Cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”, và: “Phép luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất Liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Tinh thần dân chủ, thượng tôn pháp luật và chủ trương công bằng pháp luật của Bác hết sức sáng tỏ, sâu sắc, triệt để, văn minh.

Cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở ý thức tự trọng, khơi gợi lòng yêu nước thương dân của mọi người. Có như thế, mỗi người sẽ giữ được mình trong sạch trong mọi hoàn cảnh: “Mọi người phải hiểu rằng: Tham lam là một điều rất xấu hổ; kẻ tham lam là có tội với nước, với dân”. Thực hiện chữ Liêm không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của mỗi công dân; không chỉ tạo nên giá trị chân chính cho mỗi người mà còn hun đúc nên giá trị cao quý cho cả một dân tộc, một quốc gia. Bởi vậy, chữ Liêm, cũng như chữ Cần, Kiệm, Chính có vai trò, tác dụng và ý nghĩa vô cùng to lớn, tạo nên quốc thể! Đến đây, Bác viết những lời hùng hồn mà thống thiết: “Một dân tộc biết Cần, Kiệm, biết Liêm sỉ, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”. Bác Hồ gắn liền mỗi cá nhân với cộng đồng dân tộc, gắn lòng tự trọng của mỗi người với lòng tự tôn, tự hào về dân tộc và đất nước, khi bàn về chữ Liêm.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chữ Liêm trong chỉnh thể nhất quán Cần – Kiệm – Liêm – Chính vừa có tính đạo lý truyền thống, vừa có tính hiện đại; vừa kế tục tinh hoa quá khứ Á Đông, vừa cách tân theo quan điểm hiện đại, tiên tiến của nhà cách mạng vô sản tầm cỡ quốc tế. Suốt cả cuộc đời của Bác Hồ, từ suy nghĩ, lời nói đến mọi mặt sinh hoạt và hành động – đều là tấm gương sáng ngời về đạo đức Cần – Kiệm – Liêm – Chính, chí công vô tư, khiến cho nhân dân ta vô cùng kính phục, biết ơn và bạn bè quốc tế hết sức ngưỡng mộ.

Trong bối cảnh đất nước và quốc tế hiện nay, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chữ Liêm vẫn có tính thời sự bức thiết. Từ Hội nghị TƯ 4 (khóa XI) đến Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII), Đảng ta rất coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh việc chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên (và cả trong nhân dân). Nói cách khác, Đảng ta luôn luôn đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí xa hoa, giáo dục cán bộ đảng viên và nhân dân lối sống trong sáng, tiết kiệm, xây dựng tính cộng đồng, lòng tự trọng, tự tôn và tự hào dân tộc một cách đúng đắn. Vì thế, học tập tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh về chữ Liêm, trong tổng thể Cần – Kiệm – Liêm – Chính, là một điều hết sức quan trọng và bức thiết.                                                                              

                                                     Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 463

Bài 4:

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chữ “Chính”

Bài “Thế nào là Chính?” của Bác Hồ đăng báo Cứu Quốc, ra ngày 2/6/1949. Ngay từ câu mở đầu, Bác đã giải thích ngắn gọn, rõ ràng: “Chính là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không thẳng thắn, đứng đắn, tức là tà”.

Bác nêu mối quan hệ gắn bó mật thiết, thống nhất hữu cơ và biện chứng giữa 4 phẩm chất đạo đức tốt đẹp nhất của con người: Cần-Kiệm-Liêm-Chính. Bác viết: “Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả, mới là cây hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là hoàn toàn”.

Rồi Bác dẫn giải từng bước của vấn đề rất khéo, phù hợp với quy luật nhận thức và trình độ của mọi người. Bác dùng những câu văn ngắn gọn; mỗi câu văn, lại được Bác xuống dòng, nên ý tứ rất mạch lạc, dễ hiểu, dễ nhớ: “Trên quả đất, có hàng muôn triệu người, song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người Thiện và người Ác./ Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc Chính và việc Tà./ Làm việc Chính, là người Thiện./ Làm việc Tà, là người Ác./ Siêng năng (Cần), tằn tiện (Kiệm), trong sạch (Liêm), Chính là Thiện./ Lười biếng, xa xỉ, tham lam, là Tà, là Ác”.

Bác nêu rõ: Để thực hiện chữ Chính, thì mỗi người, dù ở tầng lớp nào, giữ địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, cũng phải quan tâm đến ba mặt sau đây.

Thứ nhất, là “Đối với mình”, Bác dạy cặn kẽ mấy điều: “- Chớ tự kiêu tự đại. Tự kiêu tự đại là khờ dại, vì mình hay, còn nhiều người hay hơn mình. Mình giỏi, còn nhiều người giỏi hơn mình. Tự kiêu tự đại tức là thoái bộ. (…)./ – Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ, tức là ngừng lại. Trong khi mình ngừng lại, người ta cứ tiến bộ./ Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu./ Tiến bộ không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ thì chắc tiến bộ mãi./ – Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình, đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”. Rồi Bác kết luận phần này: “Tự mình phải Chính trước, mới giúp được người khác Chính. Mình không Chính, mà muốn người khác Chính, là vô lý”.

Thứ hai, là “Đối với người”, Bác giảng giải: “Chữ “người”, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Và Bác căn dặn: Đối với người, “phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ”. Đồng thời, Bác nhắc nhở: “Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới./ Thái độ phải chân thành, khiêm tốn./ Phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới./ Phải thực hành chữ Bác ái”.

Thứ ba, là “Đối với công việc”, Bác khẳng định ngay: “Phải để việc công, việc nước lên trên, lên trước việc tư, việc nhà”. Bác nhấn mạnh ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với công việc được giao: “Phải phụ trách việc gì, thì quyết tâm làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn, không sợ nguy hiểm./ Bất kỳ việc to, việc nhỏ, phải có sáng kiến, phải có kế hoạch, phải cẩn thận, phải quyết tâm làm cho thành công”. Bác động viên mọi người làm nhiều việc thiện, tránh xa việc ác: “Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”. Bác còn chỉ bảo ân cần: “Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi mà có hại cho nước thì quyết không làm./ Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình), dù là việc nhỏ, thì mỗi năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to”.

Kết thúc bài “Thế nào là Chính?”, Bác Hồ thâu tóm cả nội dung 4 bài đã viết và khích lệ niềm tin tưởng cho mọi người: “Ai mà chẳng muốn tự mình thành một người tốt./ Con cháu mình sung sướng./ Gia đình mình no ấm./ Làng xóm mình thịnh vượng./ Nòi giống mình vẻ vang./ Nước mình giầu mạnh./ Mục đích ấy tuy to lớn, nhưng rất thiết thực./ Thiết thực, vì chúng ta nhất định đạt được./ Chúng ta nhất định đạt được, vì mỗi một người, và tất cả dân ta đều thi đua thực hiện Cần, Kiệm, Liêm, Chính”.

Bốn bài viết của Bác Hồ về Cần, Kiệm, Liêm, Chính đăng báo Cứu Quốc giữa năm 1949 là 4 tác phẩm chính luận cực kỳ nổi tiếng, có sức sống trường tồn. Bốn chữ Cần, Kiệm, Liêm, Chính – là cốt lõi đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đạo đức ấy của Bác – là “tinh hoa của dân tộc”, là “lương tâm của thời đại” (Lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết về Hồ Chủ tịch, năm 1960). Bác Hồ là tấm gương sáng ngời về Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí Công Vô Tư. Bác là điển hình tuyệt vời của sự nhất quán giữa lời nói và việc làm, giữa tư tưởng và lối sống, suốt đời vì nước vì dân.

Ngày nay, chúng ta học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh – chính là học tập tư tưởng và làm theo đạo đức, phong cách Cần, Kiệm, Liêm, Chính của Bác, biến 4 chữ giản dị mà thiêng liêng, cao quý ấy thành hiện thực, biểu hiện cụ thể và có hiệu quả cao trong công tác, trong mỗi việc làm, trong nếp nghĩ, nếp sống hàng ngày của mỗi cán bộ đảng viên và của toàn dân. Có như vậy, thì Đảng mới vững mạnh, mới “xứng đáng là người lãnh đạo”, mới được dân tin yêu và bảo vệ, đất nước mới tiến bộ, phồn vinh, “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu” (Lời Bác Hồ), và mỗi người mới trở thành Con Người (viết hoa) đích thực, có giá trị cao đẹp, chân chính!

Đ.N.Đ

Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 464

  (Nguồn Tuần báo văn nghệ TP. Hồ Chí Minh)

Đào Ngọc Đệ
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 276 tháng 09/2017

Mới nhất

Hòn ngọc Bali giữa biển xanh

30/04/2024 lúc 17:44

 Người Việt đi du lịch Bali, hầu như chỉ biết đến những bãi tắm xa

Tự do xanh quá, mênh mông quá

30/04/2024 lúc 04:11

Thơ ca không phải là ghi chép lại lịch sử nhưng lịch sử qua thơ mang một vẻ đẹp bất ngờ và độc đáo không thể hình dung hết. Tuy nhiên, để làm được điều đó, thi sĩ phải thực sự tài năng và có cơ hội tiếp cận được hiện thực lộng lẫy trong những thời khắc có một không hai của lịch sử. Hai mươi năm đánh trận trường kỳ, cả dân tộc không đêm nào ngủ được, cả dân tộc hành quân ra trận, cả dân tộc đội triệu tấn bom để hái mặt trời và có ngày Chiến thắng 30 tháng tư năm 1975, cũng là ngày mở ra cánh cửa hòa bình, thống nhất non sông cho đất nước.

Trên đất đồi đã thôi thuốc súng

28/04/2024 lúc 16:38

Để thấy sự hồi sinh của một vùng đất, đôi khi phải làm khách vãng lai quan sát. Nhận ra

Mùa hoa chêng đỏ

28/04/2024 lúc 16:33

Chưa bao giờ chêng nghĩ mình là một loài hoa được nâng niu, chiều chuộng, cũng không mơ được

Trận pháo kích Cứ điểm 241

28/04/2024 lúc 16:31

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ, miền

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

08/05

25° - 27°

Mưa

09/05

24° - 26°

Mưa

10/05

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground