Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 04/05/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn đương đại

            Có rất nhiều ý kiến hoài nghi, phàn nàn, báo động về sự “mòn cũ” của tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn sau đổi mới. Nhưng cũng không thể phủ nhận những nỗ lực bứt phá của nó trong gần ba thập niên qua và đã để lại không ít tác phẩm có giá trị, gây dư luận xôn xao trong giới phê bình, nghiên cứu và bạn đọc. Nhìn chung, tiểu thuyết nông thôn giai đoạn từ 1986 đến nay vận động và phát triển qua ba chặng đường chính.
1. TỪ KHỞI ĐỘNG TẠO ĐÀ (1986 - 1990)
Mốc 1986 dĩ nhiên không phải thời điểm làm thay đổi diện mạo của tiểu thuyết nông thôn. Sự đổi thay đó như một dòng chảy ngầm từ những năm 80 của thế kỷ XX. Những năm đầu thập niên 80 đến 1985 xuất hiện một số nhà văn mẫn cảm trước thời cuộc. Đây là chặng đường cuối thời kỳ bao cấp, những tư tưởng, quan niệm lỗi thời vẫn còn tồn tại, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn học. Nằm trong mạch nguồn ấy, tiểu thuyết nông thôn chặng này vẫn đang “cựa quậy”, “dò tìm” - tức là nó đã có dấu hiệu đổi mới. Sau 1986, đất nước đổi mới toàn diện đã từng bước đem lại những biến chuyển lớn trong đời sống vật chất và trong nếp nghĩ, hành động của mỗi người nông dân. Nhà văn từ đó cũng có điều kiện, thời cơ thuận lợi để thể hiện những trăn trở, suy tư về những vấn đề cốt lõi của nông thôn và nông dân một cách trực diện, thấu đáo. Viết về nông thôn, các nhà văn vốn đã có thành tựu trước đó, nay có cơ hội thể nghiệm nghệ thuật mới. Nguyễn Minh Châu - cây bút tiên phong mở đường đầy “tinh anh và tài năng” đã khẳng định được sức sáng tạo của mình ở thời kỳ trước vẫn dẻo dai sức viết, tiếp tục sinh hạ những đứa con tinh thần hay nhất khi viết về nông thôn và nông dân như Mưa mùa hạ (tiểu thuyết Phiên chợ Giát - truyện ngắn).
Sau Nguyễn Minh Châu - “người dẫn đường tinh anh và tài hoa”, Lê Lựu bất ngờ cho ra đời Thời xa vắng - rơi trúng thời điểm đổi mới (viết xong tháng 9 - 1984). Vừa mới ra mắt bạn đọc, tác phẩm nhanh chóng phổ biến rộng rãi, chỉ trong mấy tháng đầu đã tái bản bốn lần với số lượng lên đến tám mươi nghìn bản. Nhưng bên cạnh đó, Lê Lựu cũng phải đối diện không ít những lời buộc tội, phản đối, phê phán, chất vấn  của các nhà quản lí, của đồng nghiệp, bạn bè chiến binh và một số nhà phê bình. Một số người cho rằng: Thời xa vắng đã xoáy sâu vào những vấn đề có tính thời sự, nhạy cảm, hàm chứa mục đích đen tối, phản đối những chính sách trong chiến tranh... Nhưng qua sự sàng lọc của thời gian, những vấn đề đặt ra trong tác phẩm được coi là bước đột phá đầy “mới mẻ” trong cách nhìn về quá khứ nông thôn, về người nông dân. Cuối cùng cũng trả lại những giá trị đích thực mà tác giả Thời xa vắng đã miệt mài sáng tạo.
Thời xa vắng trở thành sự kiện nổi bật trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Nó đã tạo đà, khởi hứng và phát triển mạnh mẽ cho một khuynh hướng nhận thức lại lịch sử nông thôn với cảm hứng phê phán. Cuốn gia phả để lại, Những thiên đường mù, Ly thân, Pháp trường trắng, Lời nguyền hai trăm năm, Lá nonÁc mộng… đều ánh chiếu vào quá khứ của một thời đau thương nhằm lật xới những mảng tối, những mặt trái, mặt tiêu cực đã bị lờ đi, bị gác lại. Nếu như trước đây văn xuôi và tiểu thuyết viết về nông thôn và nông dân chỉ đi vào phản ánh những mặt tốt đẹp của đời sống xã hội nông thôn và nông dân, thì nay, những mặt trái của quá khứ nông thôn như cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp đã được nhận chân lại, đánh giá lại. Vấn đề dòng họ, bè phái, phe giáp trong nội bộ, sự ấu trĩ trong việc ngăn cấm làm giàu cá nhân cũng được phanh phui, mổ xẻ.
Nhìn chung, tiểu thuyết viết về nông thôn ở chặng này đã thể hiện được sự mẫn cảm, tinh nhạy trước công cuộc đổi mới của nông thôn. Tiểu thuyết nông thôn bước đầu đánh dấu một mốc son trong hành trình tìm về nông thôn và nông dân, góp phần tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ ở chặng sau.
2. ĐẾN THU HOẠCH BƯỚC ĐẦU (1990 - 2000)
Tiểu thuyết nông thôn ở chặng này xuất hiện không ồ ạt nhưng có được thành tựu nhất định. Cùng thời điểm 1990, Mảnh đất lắm người nhiều ma (viết xong tháng 3 - 1988) và Bến không chồng ra đời, đánh dấu bước ngoặt lớn cho đề tài nông thôn. Hai tác phẩm đều nhận giải A của Hội nhà văn Việt Nam năm 1991 (cùng với Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh). Nguyễn Khắc Trường và Dương Hướng không luận bàn đến vấn đề áp bức, bóc lột, mà chủ yếu xoáy sâu vào những vấn đề cốt lõi ở nông thôn như những mặt trái của thời kỳ cải cách ruộng đất, mô hình hợp tác xã nông nghiệp, sự đối kháng giữa các dòng họ, chi phái, những toan tính vặt vãnh của người nông dân cũng như đi vào số phận của những người phụ nữ nông thôn không may mắn, chịu nhiều bất hạnh… Sau giải thưởng của Hội nhà văn (1991), một số tiểu thuyết như Lão Khổ, Chuyện làng ngày ấy, Thủy hỏa đạo tặc… ra đời được bạn đọc đón nhận, giới  phê bình văn học quan tâm viết bài tranh luận. Ở chặng đường này, cây bút trẻ Tạ Duy Anh nổi lên với phong cách độc đáo, với những thể nghiệm mạnh bạo trong cách viết, góp phần tạo nên diện mạo mới cho văn xuôi và tiểu thuyết viết về nông thôn. Là người có bản lĩnh, đầy trách nhiệm trước những số phận nghiệt ngã của người nông dân, ngòi bút họ Tạ như một lưỡi cày cần mẫn xới bật từng đường đất nhằm chỉ ra sự trì trệ, tù đọng, nhếch nhác của đời sống xã hội nông thôn đang kìm hãm quá trình phát triển của nó. Những truyện ngắn như Lũ vịt trời, Bước qua lời nguyền, Xưa kia chị đẹp nhất làng… Tạ Duy Anh tiếp tục chiếm lĩnh trái tim bạn đọc bằng tấm lòng yêu thương nhân hậu qua tiểu thuyết Lão Khổ. Ở tác phẩm này, nhà văn họ Tạ đã thể hiện được sự từng trải hơn, già dặn hơn, kỹ thuật hơn và cũng táo bạo hơn trong việc chiếm lĩnh hiện thực nông thôn. Tác phẩm đã tái hiện được bức tranh toàn cảnh của làng quê Bắc bộ trong những năm 1950-1970 đầy máu và nước mắt. Nhà văn còn lí giải, cắt nghĩa được số phận người nông dân (vừa là nạn nhân vừa là tội nhân) trong cơn ba đào của lịch sử.
3. VÀ ĐI VÀO BỨT PHÁ, HỘI NHẬP (2000 - 2012)
Những năm đầu của thế kỷ XXI, tiểu thuyết nông thôn thực sự bứt phá và đi vào hội nhập cùng với dòng chảy của văn học đương đại. Ở chặng này, quy tụ nhiều thế hệ sáng tác. Những cây bút lão thành thuộc thời chống Pháp, chống Mỹ như Tô Hoài, Lê Lựu, Ngô Ngọc Bội, Vũ Huy Anh, Cao Năm, Trịnh Thanh Phong, Trần Quang Vinh, Dương Hướng, Nguyễn Hữu Nhàn… đã vượt qua giới hạn của tuổi tác vẫn dẻo dai, cần mẫn, tinh tường, sắc nhạy trên từng trang văn. Họ tự vượt mình để trả về cho nhu cầu xã hội và thị hiếu thẩm mĩ của bạn đọc những “hiệu ứng” cần thiết trong cơn luân chuyển mãnh liệt của xã hội nông thôn những năm đổi mới. Họ đã trở thành lực lượng tiên phong trong việc đổi mới tư duy tiểu thuyết nông thôn của thập niên đầu thế kỷ XXI. Kế cận với lớp sáng tác thuộc “đội cận vệ lão thành”, xuất hiện những cây bút trẻ từ thời kỳ đầu đổi mới như Tạ Duy Anh, Bùi Thanh Minh, Nguyễn Thế Hùng, Trương Thị Thương Huyền, Đỗ Tiến Thụy, Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Ngọc Tư… Những cây bút trẻ chưa có sự từng trải, kinh nghiệm bôn ba như lớp đàn anh, nhưng bù lại họ có sự trải nghiệm sâu sắc về những khó khăn, thiếu thốn thời hậu chiến, bao cấp, về cả những mặt ưu lẫn trái trong cơn luân chuyển đầy nghiệt ngã của thời đại kinh tế thị trường. Và họ cũng có sự táo bạo, mới mẻ trong sáng tạo, mạnh dạn tìm tòi thử nghiệm, cách tân, chấp nhận mạo hiểm nhằm đem lại sắc diện mới cho đề tài nông thôn ở chặng đường này. Với một đội ngũ hùng hậu (trải qua bốn thế hệ) như vậy, tiểu thuyết viết về nông thôn giai đoạn này đã gặt hái được nhiều thành tựu. Số lượng tác phẩm ra đời ào ạt, dồi dào. Nhiều cuốn được nhận giải thưởng từ các cuộc thi hoặc giải thường niên của Hội nhà văn, có cuốn không đạt giải nhưng lại được dư luận quan tâm, gây tiếng vang lớn đối với bạn đọc và giới nghiên cứu, phê bình văn học, tạo nên sự sống động, tươi mới như Cuồng phong, Thời của thánh thần, Thần thánh và bươm bướm, Ba người khác, Ma làng
Ba cuộc thi tiểu thuyết do Hội nhà văn tổ chức bốn năm một lần (từ năm 1998- 2010) đã ghi nhận giá trị của mảng tiểu thuyết nông thôn trước và sau thập niên đầu của thế kỷ XXI. Nhiều giải thưởng đã được trao tặng cho các tác giả viết thể tài này. Qua mỗi cuộc thi, mảng tiểu thuyết nông thôn đều có tác phẩm đoạt giải cao như Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ hai (2002 - 2006) có 14 tác phẩm đoạt giải, trong đó có 3 tác phẩm viết về nông thôn: Dòng sông Mía đoạt giải A, Cánh đồng lưu lạc đoạt giải B, Trăm năm thoáng chốc đoạt giải C. Cuộc thi tiểu thuyết lần 3 (2006 - 2010), trong tổng số 51 tác phẩm lọt vào vòng chung khảo, mảng tiểu thuyết viết về nông thôn chiếm một số lượng lớn (Cách trở âm dương, Cuồng phong, Họ vẫn chưa về, Dưới chín tầng trời, Sấp ngửa bàn tay, Màu rừng ruộng…). Trong đó, có hai tác phẩm đạt giải cao:Chân trời mùa hạ đoạt giải B (không có giải A) và Thần thánh và bươm bướm đoạt giải C.
Hưởng ứng Nghị quyết 26 của Ban chấp hành Trung ương 7 ngày 05/8/2008 về Nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Hội nhà văn Việt Nam phát động cuộc thi viết về Nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây chính là động thái nhằm kéo văn học về với nông thôn và nông dân. Một trong những hoạt động trọng điểm khởi đầu là việc tổ chức tuyển chọn, tặng thưởng các tác phẩm tiêu biểu đã có sức sống và tác dụng lớn đối với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập. Sau 3 tháng phát động (từ tháng12/2010 đến tháng 02/2011) đã có 157 tác phẩm gửi về dự giải của 129 tác giả sáng tác từ năm 1981 đến nay, trong đó có 10 tiểu thuyết tiêu biểu được tặng thưởng, gồm Lá non, Mưa mùa hạ, Thời xa vắng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Bến không chồng, Thủy hỏa đạo tặc, Dòng sông Mía, Chân trời mùa hạ, Ma làng, Người giữ đình làng. Ban tổ chứ cuộc thi tiếp tục vận động sáng tác các tác phẩm văn học mới đến hết ngày 30.4.2015 và sẽ lựa chọn, trao thưởng nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Bộ Canh Nông (11.2015). Trong buổi trong giải, nhà văn Văn Chinh đánh giá cao về mặt nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của văn học viết về tam nông, đóng góp không nhỏ trong tiến trình đổi mới văn học đương đại. Ông khẳng định những tác phẩm đoạt giải “đại diện tương đối đầy đủ cho các thế hệ nhà văn, nhà thơ ở các vùng miền phía Nam, phía Bắc, miền xuôi, miền núi, người dân tộc thiếu số, đã dành tâm huyết, gắn bó với nông thôn. Các tác phẩm đáp ứng các tiêu chí tuyển chọn, tiêu biểu cho mảng văn học đề tài nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta trong những năm đổi mới”. Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng ra quyết định số 410/QĐ-BVHTTDL, ngày 06/02/2009 giao Cục văn hóa cơ sở tổ chức sáng tác về đề tài Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới với chủ đề Nông thôn Việt Nam đổi mới và phát triển cho các thể loại truyện, ký và kịch bản văn học. Cuộc thi thu hút nhiều cây bút chuyên và không chuyên trong cả nước tham gia. Kết thúc cuộc thi, Ban tổ chức tập hợp những tác phẩm đoạt giải dự thi in thành sách, gồm tập bút ký Sống tận cùng với đất, tập truyện ngắn Chờ bên sông mưa
Những ngành nghệ thuật khác, đặc biệt điện ảnh cũng quan tâm đến mảng đề tài này. Mười năm trở lại đây, số đầu phim Việt Nam thuộc đề tài nông nghiệp, nông thôn và nông dân gây được tiếng vang lớn đối với khán giả. Hẳn bạn đọc khó quên bộ phim Chuyện làng Nhô (4 tập) chuyển thể từ Kẻ ám sát cánh đồng của Nguyễn Quang Thiều, Đất và người (24 tập) được chuyện thể từ Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, phim truyền hình dài tập Ma Làng của đạo diễn Nguyễn Hữu Phần với kịch bản được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Thanh Phong. Đặc biệt, bộ phim Thời xa vắngcủa đạo diễn Hồ Quang Minh chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Lê Lựu sau 16 năm "lận đận" đã được giới thiệu với khán giả và giành giải thưởng Cánh diều Bạc của Hội Điện ảnh Việt Nam 2004.Năm 2010 bộ phim truyền hình Bí thư tỉnh ủy (50 tập) của đạo diễn Quốc Trọng được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Vân Thảo đã nhận được số phiếu bầu cao nhất trong cuộc bình chọn phim truyền hình yêu thích của năm. Như vậy, văn học nói chung và tiểu thuyết viết về nông thôn nói riêng là một đề tài không bao giờ cũ, thiếu vắng, trái lại được các nhà văn chú ý, quan tâm, được bạn đọc, giới phê bình đánh giá cao.
Tiểu thuyết nông thôn những năm đầu thế kỉ XXI vẫn đang chuyển mình, đang tìm tòi, thể nghiệm, đổi mới nhưng chúng ta vẫn có thể nhận diện được những thành tựu của nó trên nhiều bình diện. Trong sự mở rộng về chủ đề, nhiều tác phẩm đã tái hiện bộ mặt nông thôn và nông dân ở chiều rộng lẫn bề sâu. Nông thôn trong các cuộc đấu tranh dành quyền lực nhằm toan tính tư lợi cá nhân, gia đình, dòng tộc; những thiên kiến cổ hủ, lạc hậu tồn tại dai dẳng trong đời sống nông thôn như một định mệnh nghiệt ngã (Bão đồng, Dòng sông Mía, Ma làng). Những mánh khóe nhằm chiếm dụng của nhà nước, bòn rút của nhân dân, làm giàu bất chính của một bộ phận cán bộ cấp xã, thôn. Nguy cơ xuống cấp về tư tưởng, đạo đức cũng như lối sống của bộ máy lãnh đạo ở nông thôn, dĩ nhiên một số người nông dân cũng cùng chung guồng máy đó  (Chuyện làng Cuội, Cuồng phong, Đồng sau bão). Nông thôn thời đổi mới với những khởi sắc và cả sự bất ổn, đặc biệt là quá trình biến đổi sâu sắc trong sự tiếp biến văn hóa, trong khả năng và năng lực hành động của người nông dân trước sự đổi thay của nông thôn trên con đường hiện đại hóa (Dòng chảy đất đai, Dưới chín tầng trời, Dòng sông chở kiếp). Khoảng cách giữa hai thế hệ là một vấn đề đang ngày càng trở nên nhức nhối trong xã hội nông thôn cũng được các nhà văn phản ánh (Lão Khổ, Dòng sông Mía, Giời cao đất dày). Chủ đề ngợi ca những nông dân điển hình, những cán bộ xã, thôn tâm huyết, có tầm nhìn xa, có ý thức tự lực, có lòng tự trọng, khát khao dân chủ và nhân văn và có sự đột phá trong quản lí, trong kinh tế đã góp phần mang lại cho nông thôn sắc diện mới như Lại Tiến Thịnh, Nguyễn Mạnh Quang trong Dòng chảy đất đai, Thương Huyền trong Dưới chín tầng trời). Những chủ đề đã được quan tâm trước đó như nông thôn thời chiến tranh, cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp cũng đã quay trở lại. Nông thôn với những thảm cảnh kinh hoàng, “long trời lở đất”, với những năm đầu cách mạng và những năm chiến tranh chống Mỹ đầy gian khổ, đẫm máu và cả sự hi sinh cao cả của những người nông dân chân lấm tay bùn được hiện ra chân thực. Nhà văn đề cao sức sống, bản lĩnh và tình đoàn kết, sự tương thân tương ái của người nông dân trong việc bảo vệ làng xóm và trong cuộc sống đời thường (Chuyện làng Cuội, Nước mắt một thời, Ba người khác, Thời của thánh thần, Giời cao đất dày, Đồng làng đom đóm). Ngoài ra, với sự xuất hiện hai chủ đề về số phận con người và hạnh phúc cá nhân, đặc biệt là số phận của những người phụ nữ yếu đuối, bất hạnh trong cuộc sống hôn nhân, gia đình đã đưa tiểu thuyết nông thôn ở chặng đường này đăng quang ở chiều sâu và chiều cao trong phản ánh hiện thực (Chuyện làng Cuội, Dòng sông Mía).
Như vậy, tiểu thuyết nông thôn những năm đầu thế kỷ XXI có sự đa dạng và phong phú về chủ đề. Những vấn đề bức xúc, phức tạp trong đời sống nông thôn đương đại được các nhà văn phản ánh, “nhận thức lại” một cách chân thực, đầy đủ và sâu sắc. Tận sâu trong những trang văn, các nhà văn không chỉ khẳng định sức mạnh to lớn của người nông dân, mà còn khai vỡ tận cùng những nếp sống, những nếp nghĩ, những tập quán và tâm lí truyền thống vẫn cứ tồn tại dai dẳng, chi phối mạnh mẽ trong môi trường văn hóa ở nông thôn cũng như số phận của nhiều lớp nhà quê. Các nhà văn còn xông thẳng vào mọi ngõ ngách của làng quê để nắm bắt được “cái hôm nay bề bộn, ngổn ngang bóng tối và ánh sáng…” (Nguyễn Khải), đồng thời lặn sâu vào tâm hồn để lắng nghe những khát vọng, ước mơ, nỗi đau và sự trắc ẩn trong tâm hồn người nông dân. Mọi vấn đề có tính căn bản của đời sống xã hội nông thôn được đặt ra một cách riết róng, nhằm hướng tới sự quan tâm của người đọc, giúp mọi người nhận rõ được bộ mặt của nông thôn Việt Nam đương đại vừa thanh bình vừa hiện đại, vừa yên ả vừa sóng gió để bạn đọc không ngừng suy tư, trăn trở và đau đáu, bận lòng trắc ẩn nhưng cũng đầy bất ngờ, lý thú.
Tiểu thuyết nông thôn những năm đầu thế kỷ XXI có nhiều tìm tòi, thể nghiệm và cách tân trong phương thức nghệ thuật. Hàng loạt kĩ thuật viết mới của chủ nghĩa hiện đại, hậu hiện đại được khai sinh như bút pháp nhại, huyền thoại, kì ảo, nghịch dị, vô thức, những kĩ thuật phân tâm học, kỹ thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức, lắp ghép điện ảnh, nghệ thuật gián cách, đa giọng điệu, liên văn bản; hình tượng được kiến tạo theo nguyên tắc lạ hóa, sự xáo trộn giữa thực và hư, giữa siêu nhiên, huyền bí và đời thường… đã được các nhà văn thể nghiệm, vận dụng nhuần nhuyễn trong tác phẩm. Sự đổi mới đó, trước hết thể hiện ở ý hướng giã từ lối viết hiện thực xã hội chủ nghĩa. Yếu tố kỳ ảo, huyền thoại được sử dụng dày đặc trong các tác phẩm viết về nông thôn. Họ vẫn chưa về là huyền thoại về cuộc sống loài hươu cũng như số phận của người nông dân trước cơn bão của thời cuộc.Đất trời vần vũ là “thế giới song song” tồn tại một bên là sự hư ảo cùng với lịch sử và huyền thoại cù lao Dao và một bên là hiện thực xã hội đầy ngổn ngang, bề bộn tốt xấu, thiện ác, trắng đen. Dòng sông Mía là huyền thoại về Cá thần ở dòng sông Châu Giang vừa hiền lành vừa hung dữ trừng trị những kẻ phàm đạo. Giời cao đất dày là huyền thoại về con quái vật thoát thai từ kẻ ác, sau đó được Thuần cảm hóa. Lão Khổ, Dòng chảy đất đai… ôm chứa nhiều thể loại khác như thơ, tục ngữ, thư từ, chuyện kể, nhật ký, “tham luận khoa học”, cổ tích, huyền thoại, điển tích. Dấu hiệu luân phiên điểm nhìn hiện rõ trong Giã biệt bóng tối, Ba người khác… Điểm nhìn trần thuật không còn đơn tuyến, toàn trị (không đơn điệu, duy nhất một điểm nhìn), mà có sự luân phiên phối hợp các điểm nhìn khác nhau. Điểm nhìn trần thuật được phân tán về mọi phía, mọi góc độ. Điểm nhìn của người kể chuyện, điểm nhìn của người dẫn truyện, điểm nhìn của các nhân vật… luôn đan xen, trượt ngôi và hoán đổi vị trí. Chính sự chuyển đổi điểm nhìn tạo nên sự luân chuyển nhịp nhàng, tạo hiệu quả nghệ thuật cao, góp phần phá bỏ cách đọc, cách tiếp cận tác phẩm theo kiểu truyền thống. Thủ pháp nhại văn phong khoa học, ngoại giao, quân sự và văn phong của lối viết lịch sử, địa lí cũng được sử dụng một cách nhuần nhuyễn trong Giã biệt bóng tối, Dòng chảy đất đai, Thần thánh và bươm bướm
Trước bước ngoặt chuyển mình của dân tộc, tiểu thuyết viết về nông thôn đã hòa vào dòng chảy để phán ánh trọn vẹn bức tranh nông thôn đương đại ở bề sâu dưới cái nhìn nhận thức lại hiện thực và nhu cầu đạo đức tối đa. Hẳn nhiên, nhiều vấn đề mới, cách nhìn và cả hệ hình tư duy mới được đặt ra cấp thiết, sâu sắc trong mạch ngầm tiểu thuyết. Nó mang đến hơi thở mới cho văn xuôi nói chung và sức cuốn hút mãnh liệt cho tiểu thuyết viết về nông thôn nói riêng với nhiều dáng nét độc đáo hơn. Sự vận động hợp quy luật của văn xuôi đã mở ra nhiều ngả đường để tiểu thuyết nông thôn đi sâu vào mọi ngõ ngách của làng quê thanh bình nhằm tìm kiếm, phát hiện những vẻ đẹp, những đau khổ, những ẩn ức… trong từng thân phận người nông dân. Sự đóng góp đó đã mang lại sức sống mới, chiều sâu mới cho nền tiểu thuyết nước nhà bằng những trang văn rất riêng. Nó khẳng định tiếng nói, tâm hồn, bản lĩnh của dân tộc mà các nhà văn chân tài đã miệt mài sáng tạo.
B.N.H
 
 
 
 
 
_______
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995: Những đổi mới cơ bản, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
2. Trần Cương (1995), “Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau những năm 1980”, Tạp chí Văn học, (4), tr.34 – 36.
3. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
4. Tôn Phương Lan (2005), “Về hướng tiếp cận mới đối với hiện thực trong văn xuôi sau 1975” in trong sách Văn chương và cảm nhận, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Long (2009), Văn học Việt Nam sau 1975 và việc giảng dạy trong nhà trường, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
6. Văn Chinh (2011), “Những tác phẩm văn học viết về nông thôn”, Nguồn: Tonvinhvanhoadoc,vn, (31/05).
7. Mai Hải Oanh (2009), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu Tuyết (2007), Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học sau 1975, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
9. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
10. Hữu Thỉnh (2011), “Nông thôn trong thần thánh và bươm bướm còn đảo lộn ghê gớm hơn thời cải cách”, Nguồn: Vanhoanghean, vn, (29/11).
11. Bích Thu  (2006), Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (11), tr.15 – 28.
12. Võ Gia Trị (2011), “Tiểu thuyết – Niềm hi vọng trong thế kỷ 21”, Tạp chí Nhà văn, (11), tr. 80 – 86.
BÙI NHƯ HẢI
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 229 tháng 10/2013

Mới nhất

Hòn ngọc Bali giữa biển xanh

30/04/2024 lúc 17:44

 Người Việt đi du lịch Bali, hầu như chỉ biết đến những bãi tắm xa

Tự do xanh quá, mênh mông quá

30/04/2024 lúc 04:11

Thơ ca không phải là ghi chép lại lịch sử nhưng lịch sử qua thơ mang một vẻ đẹp bất ngờ và độc đáo không thể hình dung hết. Tuy nhiên, để làm được điều đó, thi sĩ phải thực sự tài năng và có cơ hội tiếp cận được hiện thực lộng lẫy trong những thời khắc có một không hai của lịch sử. Hai mươi năm đánh trận trường kỳ, cả dân tộc không đêm nào ngủ được, cả dân tộc hành quân ra trận, cả dân tộc đội triệu tấn bom để hái mặt trời và có ngày Chiến thắng 30 tháng tư năm 1975, cũng là ngày mở ra cánh cửa hòa bình, thống nhất non sông cho đất nước.

Trên đất đồi đã thôi thuốc súng

28/04/2024 lúc 16:38

Để thấy sự hồi sinh của một vùng đất, đôi khi phải làm khách vãng lai quan sát. Nhận ra

Mùa hoa chêng đỏ

28/04/2024 lúc 16:33

Chưa bao giờ chêng nghĩ mình là một loài hoa được nâng niu, chiều chuộng, cũng không mơ được

Trận pháo kích Cứ điểm 241

28/04/2024 lúc 16:31

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ, miền

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

05/05

25° - 27°

Mưa

06/05

24° - 26°

Mưa

07/05

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground