T |
rần Nhân Tông (1258 - 1308), tên thật là Trần Khâm - kế nghiệp đời thứ ba của nhà Trần vào năm Kỷ Mão (1279). Ông được xem là một trong những vị vua anh minh của lịch sử Việt Nam. Sau 14 năm trị vì, Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông vào năm 1293, lên làm Thái thượng hoàng và đi tu, trở thành thủy tổ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền ấn tượng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trần Nhân Tông đã thực sự là một triết gia lớn của Phật học, đưa nền Phật giáo Việt Nam phát triển rực rỡ.
Chứng nghiệm về tư duy diệu pháp ấy của Trần Nhân Tông, chúng ta hãy chiêm luận về câu trả lời, khi một học trò hỏi Ngài: “Như thế nào là Phật?”. Nhân Tông đáp: “Như cám ở đáy cối.”
Là thiền sư - nhà thơ Thiền xuất chúng. Bài ngũ ngôn tứ tuyệt Xuân Hiểu là một trong số mười lăm bài thơ tiêu biểu của ông viết về mùa Xuân:
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
Bản dịch của Ngô Tất Tố.
Ngủ dậy ngỏ song mây
Xuân về vẫn chửa hay
Song song đôi bướm trắng
Phất phới sấn hoa bay
Hai câu đầu của bài thơ mở ra ngoại cảnh: Ngủ dậy ngỏ song mây/ Xuân về vẫn chửa hay, nội hàm diễn đạt về một buổi sớm tinh khiết. Chưa hay biết xuân về. Tính Thấy của động thái biến dịch vũ trụ quan qua tâm ý tràn trề an lạc. Mạch xuân dâng tràn. Cái đang là trước không gian tự tại cho ta chiêm cảm về một tư duy trở nên trong sâu thẳm của vũ trụ bao la.
Song song đôi bướm trắng/ Phất phới sấn hoa bay. Hình ảnh Đôi bướm trắng là biểu tượng của tình yêu trong sáng, dạt dào. Và sấn hoa bay, cho ta cảm nhận sự mơn mởn, man mác hương thơm ngào ngạt của Xuân đất trời đang lan tỏa. Ý nghĩa cái vỗ cánh của đôi bướm còn hướng ý thức về quán niệm trong sự đổi thay số phận, biến dịch không gian.
Bài Xuân hiểu của Trần Nhân Tông, tả cảnh một buổi sớm mùa xuân thanh thản. Với 20 mươi đơn vị Hán tự cô đọng và qua bút pháp tài tình của dịch giả uyên bác Ngô Tất Tố, đã dẫn dắt chúng ta tiếp cận với bài thơ một cách toàn mỹ.
V.K.C