C |
ác họa sĩ bậc thầy Việt
Xuất thân từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương do người Pháp đào tạo, nhưng Nguyễn Phan Chánh lại thành công và thành danh ở lĩnh vực tranh lụa - một loại hình nghệ thuật mang đậm chất Á Đông từ chất liệu cho đến cách tạo hình. Ông chỉ tiếp nhận các kỹ thuật hội họa phương Tây - hình họa, đường nét, màu sắc, bố cục, cách xử lý ánh sáng, luật xa gần… - qua các giáo sư Victor Tardieu và Joseph Inguimberty như một phương tiện kỹ thuật mang tính phổ quát. Trên nền tảng đó tạo dựng cho mình một phong cách hội họa bác học theo tinh thần của thời đại mới mà vẫn bám rễ sâu vào nguồn mạch văn hóa mỹ thuật truyền thống đã phát triển rực rỡ hàng ngàn năm của dân tộc.
Sinh ra và lớn lên từ một làng quê nghèo của huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, thuở bé Nguyễn Phan Chánh học chữ Nho ở quê nhà, rồi vào Huế học Trường sư phạm Đông Ba. Năm 1922, sau khi tốt nghiệp, Nguyễn Phan Chánh ở lại Huế dạy học. Và… một thôi thúc lạ đời đã đưa Nguyễn Phan Chánh đến với hội họa. Ông ra Hà Nội thi đỗ vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa I (1925-1930) cùng với Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ, Công Văn Trung, Lê Văn Đệ… Và từ đấy, chúng ta có một Nguyễn Phan Chánh họa sĩ.
Trong những năm đầu của khóa học, Nguyễn Phan Chánh không mấy thành công ở chất liệu sơn dầu. Chính thầy Victor Tardieu, với phương châm “Bảo tồn tính dân tộc” trong giảng dạy hội họa, đã nhận thấy tư chất ông không hợp với lối vẽ sơn dầu phương Tây nên khuyên ông chuyển sang lối vẽ phương Đông truyền thống, và giúp ông tìm hiểu về hội họa cổ Trung Quốc. Những năm cuối ở trường, Nguyễn Phan Chánh miệt mài tìm tòi, nghiên cứu, thể nghiệm chất liệu lụa và đã tiến một bước dài trong việc cách tân nền hội họa Việt
Khác với tranh sơn dầu hay sơn mài, bột màu… người nghệ sĩ có thể mặc sức thả bút theo dòng xúc cảm đang tuôn trào, khi vẽ tranh lụa người nghệ sĩ phải lắng lòng để chuyển tải cảm xúc. Do đó cảm hứng sáng tạo thường diễn ra chậm. Từ những đặc tính của lụa như cách diễn hình và sắc mơ màng, thơ mộng… đòi hỏi người nghệ sĩ ngoài đức tính kiên nhẫn, cần cù còn phải có một thái độ nghiêm cẩn, tỉ mỉ, cầu kỳ trong từng nét vẽ, tạo loang mới có thể làm nên một bức tranh lụa đẹp lung linh, mờ ảo, mỏng manh, thanh thoát. Nguyễn Phan Chánh là bậc thầy về lĩnh vực này. Tranh ông nền nã với những gam màu nâu đen, vàng đất, xám nhẹ thấm đẫm chất lụa đã làm nên một phong cách nghệ thuật Nguyễn Phan Chánh trữ tình, độc đáo.
Tài năng Nguyễn Phan Chánh thể hiện ngay trong cách nhìn. Ông nhìn bằng tâm tưởng, thấy được những điều mắt ta không thấy, hoặc thờ ơ bỏ qua: vẻ đẹp đời thường. Đó là những cảnh: Rửa rau cầu ao, Em bé chơi chim, Hai thiếu nữ đội nón thúng quai thao, Thiếu nữ chải tóc, Hái rau muống, Rửa khoai, Tối cho con bú, Đêm trăng lu, Kỳ lưng, Tắm ao…
Với bố cục thông thoáng và sự gia công tinh tế của phương Đông hợp hòa cùng sự chính xác, khoa học phương Tây, giữa diễn tả và gợi tả. Nguyễn Phan Chánh đã tẩm tâm hồn chúng ta trong hồn quê dân dã. Tranh ông mang lại sắc thái êm ả, thanh thản, bình dị, trữ tình. Về tranh lụa Nguyễn Phan Chánh, Z.Kwecinska – nhà văn Ba Lan, nhận xét: “Xem tranh, chúng ta có cảm giác như nghệ sĩ đang tâm sự những câu chuyện của đời mình. Ông như muốn chia sẻ những khát vọng, hoài bão và tình yêu cuộc sống, con người. Mỗi bức tranh như một bài thơ. Tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh thật êm dịu, mát mẻ. Phải có một nghị lực phi thường, một sức sống mạnh mẽ, họa sĩ mới giữ được sự bình thản, êm đềm ở một đất nước luôn có chiến tranh”. Qủa là lời nhận xét đắt giá, tinh tường!
Nguyễn Phan Chánh là một trong những họa sĩ hàng đầu của tranh lụa Việt Nam và cũng là người gióng tiếng chuông lớn cho hội họa Việt Nam ở nước ngoài, mà theo nhà thơ Xuân Diệu: “Cái tài của Nguyễn Phan Chánh là biết kết hợp hai cái nhất nhì của thiên hạ: chữ rồi mới đến tranh, nhưng nhiều bức tranh có chữ của ông đã đẩy tranh lên hàng nhất rồi đến chữ, nhờ vậy mà tranh Nguyễn Phan Chánh ăn sâu vào lòng cả người trí thức lẫn nông dân”. Sự thuần tính cách Việt xuyên suốt trong gia tài hội họa của ông đã đánh thức biết bao kỷ niệm êm đềm về quê hương, xứ sở. Ngày nay, nông thôn Việt
T.C