T |
rong nền văn học Việt Nam hiện đại có không nhiều nhà văn vào thời còn trai trẻ, trớc và những năm đầu cầm bút viết văn (sáng tác, nghiên cứu, phê bình, dịch thuật) đã từng là giáo viên bậc tiểu học, trung học.
Trớc Cách mạng tháng 8/1945, có thể kể, đó là: Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nguyễn Lân, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Dơng Quảng Hàm, Nam Cao…
Sau ngày đất nớc giành độc lập, nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, con số các nhà văn xuất thân là nhà giáo xuất hiện ngày càng đông hơn, mở rộng đến các nhà giáo giảng dạy ở bậc Đại học. Lúc này có thể nói tới: Hoàng Xuân Nhị, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Trơng Tửu, Trơng Chính, Hoàng Nh Mai, Nguyễn Văn Hạnh, Phơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Ngọc Trà… và Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Giang Nam… tiếp đến Hoàng Ngọc Hiến, Mai Quốc Liên, Hoàng Văn An, Vũ Nho, Phạm Quang Trung… cùng nhiều ngời khác nữa.
Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh năm 1936, tên khai sinh là Đinh Trọng Đoàn) cũng thuộc vào trờng hợp nói trên.
Trong tác phẩm hồi ký - tự truyện Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thơng xuất bản quý 3 năm 2009, Ma Văn Kháng cho biết: Trong chặng đờng 21 năm đầu của đời công chức nhà nớc tại tỉnh biên viễn Lào Cai (từ 1955 đến 1976) thì hơn một nửa thời gian ông hoạt động trong ngành giáo dục. Không thể khác đợc, vì trớc đó, từ 1952 đến 1954 ông là giáo sinh Trờng S phạm Trung cấp tại Khu học xá Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc), đợc đào tạo bài bản để sau khi tốt nghiệp làm giáo viên tiểu học về các môn thuộc khoa học xã hội và nhân văn.
Số phận - tình cờ cũng có, chủ tâm cũng có - đã đa ông đến vùng Lào Cai, miền đất vàng, nh ông quan niệm nhuốm màu tâm linh, huyền diệu - mà ở đó ông lập thân, lập nghiệp, thành danh với bút hiệu Ma Văn Kháng.
Từ 1/1955 đến 3/1967 (không kể thời gian từ giữa tháng 9/1961 đến tháng 6/1963, ông đi học đại học tập trung tại Trờng Đại học S phạm Hà Nội) Ma Văn Kháng đã trải qua các cơng vị trong ngành giáo dục: giáo viên dạy các môn khoa học xã hội ở cấp I, II; Hiệu trởng trờng cấp II, cấp III thị xã Lào Cai; rồi Trởng phòng chuyên môn Ty Giáo dục Lào Cai.
Truyện ngắn đầu tay Phố cụt của ông trình làng bút danh Ma Văn Kháng đợc đăng trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, 3-3-1961. Nhng ta phải ngợc lên những năm trớc đó để đi tìm cội nguồn văn chơng nơi ông, khi ông vẫn còn mang tên Đinh Trọng Đoàn. Với ông, không chỉ đợi đến khi làm thầy đứng lớp với bảng đen phấn trắng cùng các dụng cụ học tập hoặc làm nhà quản lý (dù ở cấp thấp) sự nghiệp giáo dục ở một tỉnh lẻ có nhiều bà con là ngời dân tộc thiểu số, ông mới khơi nguồn, phát lộ tiềm năng văn chơng. Mà khi còn ở tuổi học trò niên thiếu (mài đũng quần học các môn kiến thức văn hóa sơ đẳng của các cấp học phổ thông), rồi trung cấp, đại học và sau này vào tuổi tráng niên học nghề cầm bút ở Trờng Bồi dỡng những ngời viết văn trẻ (Quảng Bá, Hà Nội) thì ông cũng không bao giờ quên công lao dạy dỗ của các bậc thầy dạy văn trực tiếp mà ông hân hạnh đợc truyền dạy. Họ đã mở cánh cửa giúp ông và các đồng môn đợc tiếp xúc với các tác phẩm văn học u tú thuộc hàng kinh điển của kho tàng văn học thế giới, văn học dân tộc Việt Nam. Họ đã vun xới và thắp lên ngọn lửa của tình yêu và niềm khao khát cống hiến toàn bộ tâm hồn và sức lực của mình cho văn chơng trong con ngời ông.
Hồi tởng những ngày cuối 1954 đầu 1955 khi đi tới quyết định không gì lay chuyển nổi là tình nguyện lên Tây Bắc dạy học sau ngày tốt nghiệp Trờng Trung cấp S phạm, ông viết: Dạo đó “tôi đã đọc và rất mê Truyện Tây Bắc của Tô Hoài (…) và “đã có một thôi thúc vừa da diết vừa mơ hồ trong tôi, nó cho tôi cái cảm giác rằng ở nơi đó tôi sẽ sống thoải mái và làm đợc một điều gì có ích” (Hồi ký, tr. 44-45). Ông khẳng định, không chút đắn đo: “Đối với tôi, trong sự hình thành những cơ sở đầu tiên của một nhà văn, tất cả đều là nhờ thầy cô”. “Và nếu hôm nay tôi có đợc bạn đọc công nhận là nhà văn thì công lao tạo nên tôi, trớc hết là thuộc về nhà trờng, nơi trau dồi lý tởng sáng đẹp, nơi dạy tôi tình yêu đối với tiếng Việt, nơi cho tôi thấy cái đẹp kỳ lạ, cái sức mạnh vô hình, lớn lao của ngôn ngữ ông cha, trong đó, ở bậc tiểu học là sự manh nha và cảm tính; sâu sắc, ấn tợng mạnh mẽ hơn ở bậc trung học và hoàn thiện trọn vẹn, kể cả từ một tình yêu bền vững tới tri thức và kỹ năng sử dụng tiếng Việt cùng cách thức tạo lập nên các giá trị văn học, ở bậc Đại học” (Hồi ký, tr.39,40).
ở đây, Ma Văn Kháng đã từ con đờng đi của mình ghi nhận một quy luật khá phổ biến: nhà văn tơng lai có thể và cần phải biết cách tiếp nhận từ “cái nôi” nhà trờng các cấp những tri thức nền tảng để từng bớc đi vào đại lộ của ngời viết văn chuyên nghiệp. Đó là một nghề nghiệp không dễ dàng, đòi hỏi phải có tài và có tâm; nghề nghiệp này hớng con ngời vơn tới cái cao cả của lý tởng và nhân sinh quan, niềm thiết tha hoàn thiện cái đẹp của nhân cách và tình đời trong cõi nhân thế cùng những rung động thẩm mĩ tinh tế, mãnh liệt trớc cuộc đời phồn tạp và con ngời đa đoan. Đó là cả một thế giới không cùng, bên cạnh những điều hiển lộ, nó còn ấp ủ bao điều thầm kín, bí ẩn luôn chờ đợi sự khám phá, sáng tạo của những nhà văn có trái tim nhạy cảm và cặp mắt tinh đời, ngòi bút điêu luyện!
Song, về một phơng diện khác, nghề dạy học lại mở ra cho nhà văn Ma Văn Kháng một chân trời mới về tự đào tạo, dấn thân rèn luyện cho nghề viết. Là nhà giáo, Ma Văn Kháng có điều kiện mở rộng diện tiếp xúc với những mảng hiện thực đời sống tuổi ròng, phập phồng nhịp đập trái tim, thấm đẫm mồ hôi và nớc mắt của ngời đời, chứa đựng trong đó bao vấn đề thiết cốt thuộc nhân sinh, thế sự đơng thời gần gụi ta, ám ảnh ta.
11 năm ròng trong nghề này ở nơi vùng cao biên giới đã tích tụ trong Ma Văn Kháng một vốn liếng quý giá vô ngần, chín dần qua năm tháng mãi về sau, trở thành trầm tích, thành mỏ vàng trữ lợng luôn dồi dào. Ông ghi chép, nhập tâm mài sắc sự hiểu biết hiền minh, lão thực mà khoan dung về các loại ngời trong xã hội, đặc biệt về các loại học trò lớp lớp trên vùng cao các dân tộc anh em; về các thầy cô miền xuôi, miền ngợc chung lng đấu cật dựng lớp, mở trờng, khai tâm ánh sáng của văn minh, văn hóa nơi vùng sâu, vùng xa, hẻo lánh; về những nhà quản lý sự nghiệp các cấp với chân dung muôn hình nhiều vẻ.
Nhng trên hết, nghề dạy học đã giúp ông có một thế đứng “thợng phong” nếu có thể nói đợc nh vậy. Từ tầm cao điểm nhìn không cắt đứt với cội nguồn truyền thống dân tộc mà vẫn mở rộng giao lu và hội nhập, các tác phẩm của ông là một sự phản tỉnh, trầm t sâu sắc, cảnh báo thấm thía xung quanh việc giữ gìn bồi đắp đạo học, đạo làm ngời, nghĩa thầy - trò, ngăn chặn sự suy vi, xuống cấp của nhân tâm, thế đạo.
Bằng những hình tợng nhân vật và thế giới nghệ thuật sinh động, giàu sức ám ảnh, khơi gợi tranh luận, đối thoại, Ma Văn Kháng cố gắng làm sáng lên chân lý giản dị: Phải làm chủ hơn nữa tinh hoa trí thức nhân loại và dân tộc. Đó là những tầng vỉa của văn minh con ngời, nó giúp cho mỗi ngời duy trì một cách sống tốt đời đẹp đạo, trong đó ngời trí thức luôn là những sinh thể t duy u tú đáng trọng thị nhiều lần, nh ngời xa từng nói rằng phải biết trọng hiền tài, bởi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.
Với t cách nhà giáo - nhà văn, Ma Văn Kháng là ngời kế tục xuất sắc các bậc đàn anh Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng.
Trong khối lợng đồ sộ tác phẩm văn xuôi của Ma Văn Kháng gần tròn nửa thế kỷ (gần 200 truyện ngắn, 13 tiểu thuyết cùng tác phẩm các loại khác), không thể không nhắc tới tác phẩm truyện ngắn đầu tay Phố cụt đợc ông viết trong căn nhà trọ của giáo viên ở một khu phố trung tâm thị xã Lào Cai ven bờ sông Nậm Thi trong xanh, thơ mộng. Thiên truyện báo hiệu sự xuất hiện của nhà giáo - nhà văn mới.
Truyện viết về thời đơng đại hôm nay mà nh đi ra từ cổ tích truyền thống, bắt gặp trong truyện niềm chan chứa cảm thông, mặn mà chia sẻ niềm vui nỗi buồn giữa những ngời lao động lam lũ cùng cảnh ngộ. Trong sự chật vật kiếm sống vì miếng cơm manh áo, giữa họ vẫn mở lòng đùm bọc, tơng thân, tơng ái, “lá lành đùm lá rách”.
Dần dà, Ma Văn Kháng đã vợt thoát khỏi những cái bóng đầy uy lực của các bậc đàn anh đáng kính.
Bền bỉ, cần mẫn đi vào đời sống, bắt rễ sâu vào những ngõ ngách phố thị, làng xã, kiên trì tìm hiểu khám phá các số phận đa đoan mà phức tạp, dị biệt nhng đáng trọng, xới lên những vấn đề nóng bỏng của ngành giáo dục và nghề dạy học, Ma Văn Kháng trong những năm đầu đổi mới cho đến gần đây, bằng các tác phẩm xuất hiện kịp thời, đã thu hút sự quan tâm, thảo luận, bình giá của công chúng rộng rãi.
Qua các tập truyện ngắn và tiểu thuyết nổi tiếng Trăng soi sân nhỏ (1995), Mùa lá rụng trong vờn (1985), Đám cới không có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989), Gặp gỡ ở La Pan Tẩn (2001),… Ma Văn Kháng đã khắc hoạ những điển hình bất hủ (cả về mặt sáng và mặt tối của xã hội ta trên bớc đờng chuyển đổi cơ chế, cơ cấu) về nhân vật Ngời Thầy - động lực điều hành cỗ máy giáo dục vận hành theo hớng đổi mới. Chân dung những nhân vật nhà giáo - con đẻ của thời đại mới: Đặng Trần Tự, Thiêm… đã tiếp tục nối vào chân dung của Thứ (trong Sống mòn của Nam Cao), là những biểu tợng đẹp đẽ của thế hệ nhà giáo mới hôm nay. Họ đã hết lòng vì học sinh thân yêu, không chỉ dạy kiến thức chuyên môn mà còn dạy cách làm ngời, cách trở thành những công dân tốt, cho các em là thế hệ trẻ, tơng lai của đất nớc. Bên cạnh đó, Ma Văn Kháng đã dựng lên những hình tợng biếm hoạ về những kẻ tha hoá trong ngành giáo dục. Chúng là những “con sâu bỏ rầu nồi canh”, bất tài, vô dụng, quen ỷ thế làm càn, tìm cách hãm hại ngời lơng thiện chỉ vì đố kỵ nhỏ nhen, tham tiền và hám gái (Quốc Thanh trong Gặp gỡ ở La Pan Tẩn). Sức mạnh chiết toả từ những trang viết của Ma Văn Kháng về ngời Thầy ngời trò và những vấn nạn trong ngành giáo dục hôm nay, về sự lạc hậu, giáo điều trong truyền đạt tri thức, về thói quan liêu vô trách nhiệm, bệnh thành tích, sính khoa trơng, hình thức, về sự bất nhẫn trong hành xử giữa những ngời trong nghề, cùng giới, v.v… cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị! Tinh thần trách nhiệm đối với sự nghiệp đổi mới nền giáo dục của đất nớc, niềm mong mỏi sự hoàn thiện về năng lực và nhân cách, đạo đức s phạm của mỗi một ngời Thầy cùng chí tiến thủ của lớp lớp học trò “hậu sinh khả uý”… vẫn ngầm lan toả trên những trang văn của Ma Văn Kháng.
Ma Văn Kháng, có thể nói, đã là một gạch nối, tiếp sau Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, ông là nhà giáo - nhà văn của thế hệ mới, để lại một mảng tác phẩm gây ấn tợng sâu sắc, có sức hấp dẫn lâu bền đối với ngời đọc - từ những hình tợng nhân vật giầu sức biểu hiện và khái quát cao về ngành giáo dục qua những thăng trầm của lịch sử dân tộc, vẫn rạng rỡ những nét đẹp trong nhân cách kẻ sĩ nơi Ngời Thầy khả kính!hành trình, nhà văn rất dễ cô đơn khi động cơ thiếu trung thực và không có người đồng hành.
Cuộc chiến tranh cách mạng của dân tộc ta ở thế kỷ XX sẽ còn là đề tài lớn cho văn học, nghệ thuật những thế kỷ tiếp theo. Nhưng đó không phải là toàn bộ sứ mệnh của văn học. Nói đúng ra, nó vẫn chỉ là một trong những món nợ mà văn chương cần phải trang trải cho lịch sử dân tộc mà thôi. Trong cuộc sống xã hội hiện đại còn có bao nhiêu vấn đề quan yếu khác mà văn học nghệ thuật cần phản ánh. Trong quá trình đổi mới và hội nhập, vấn đề tìm kiếm, xây dựng một mô hình xã hội lý tưởng mới, một con đường phát triển mới, một trật tự xã hội mới, trong đó các giá trị tinh thần nói chung, giá trị con người nói riêng được tôn vinh; mọi tiềm năng sáng tạo được giải phóng, mọi nhu cầu hưởng thụ vật chất và văn hóa chính đáng được đáp ứng… đang là những vấn đề lớn mà nghệ sĩ chân chính không thể đứng ngoài cuộc. Chẳng lẽ ở đó không có đất cho những tác phẩm nghệ thuật lớn? Không có chỗ cho những xúc cảm nghệ thuật cao cả?
Không thể phủ nhận được rằng trong tiến trình đổi mới và hội nhập hơn hai mươi năm qua, nền văn học, nghệ thuật của chúng ta đã cho thấy những dấu hiệu mới, những cách tân về phương diện hình thức và phương thức biểu hiện. Nhưng, cái mà giới văn học, nghệ thuật đang cần hiện nay là ý thức trách nhiệm nghệ sĩ – công dân trước xã hội. Một cách nhìn mới về chiến tranh, một thái độ mới về những số phận bị bỏ quên, những bi kịch nhỏ giữa đời thường… đối với văn học vẫn luôn luôn đáng khích lệ và trân trọng. Nhưng, những phát hiện lý giải mới về tâm lý, đạo đức của con người trong cơ chế thị trường; những vẫn đề mới nảy sinh trong đời sống xã hội như: vấn đề chuyển đổi hệ giá trị đạo đức tinh thần diễn ra trong thời kỳ đổi mới và hội nhập; những vấn đề lớn mang tính toàn cầu như vấn đề số phận con người trước sự biến đổi khí hậu, môi trường và những biến cố thiên tai, dịch bệnh… những tác động của làn sóng công nghiệp hóa đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn; những vấn đề tâm lý – xã hội nảy sinh trong quá trình đô thị hóa; những biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống, khuynh hướng bạo lực, bạo hành trong gia đình, nhà trường và xã hội đang gia tăng; lỷ lệ người chết do tai nạn giao thông và các nguyên nhân khác đang hàng ngày, hàng giờ cướp đi sinh mệnh của hàng trăm, hàng nghìn con người; vấn đề phân hóa giàu nghèo trong xã hội, đặc biệt là tâm lý bất an của con người hiện đại trước các tác động của xã hội và môi trường, trong đó, cái xấu, cái ác đang có chiều hướng lấn át làm lu mờ cái đẹp, cái thiện…, chẳng lẽ đó không phải là những vấn đề của con người xã hội mà văn học cần quan tâm sao?
Chúng ta đang sống trong thời đại có những biến đổi khó lường. Những thành tựu của khoa học và công nghệ - sản phẩm trí tuệ của con người đạt được ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI này – sẽ cho phép các nhà khoa học ở từng lĩnh vực tiến hành xử lý các dữ kiện để đưa ra những dự báo toàn cầu, dự báo về từng khu vực và từng lĩnh vực. Có lẽ vì vậy mà ngày nay dự báo đã trở thành một ngành khoa học (khoa học dự báo) đang phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ngoài trí tuệ của con người, máy tính sẽ là công cụ hữu hiệu giúp cho các ngành khoa học thực hiện các dự báo của mình. Còn văn học – sẽ dự báo tương lai như thế nào và bằng phương tiện nào?
Có lẽ, cũng giống như các nhà môi trường – sinh thái học, các nhà kinh tế - chính trị học, các nhà xã hội học, thiên văn học và các nhà khoa học ở những lĩnh vực khác nhau…, các nghệ sĩ cũng có những cách dự báo riêng của mình. Dự báo đó không dựa trên các thực nghiệm khoa học mà dựa trên các chiêm nghiệm từ đời sống; không dựa trên sự phân tích những yếu tố riêng lẻ mà dựa vào những khái quát lớn trên diện rộng. Hạt nhân của dự báo đó đương nhiên là những vấn đề liên quan đến con người, của con người, vì nói như M.Gorki, “văn học là nhân học”.
Nửa đầu thế kỷ XX, trước thảm họa khốc liệt của hai cuộc thế chiến trước nhịp độ phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật, nhiều nhà văn, nhà triết học hiện sinh ở phương Tây đã đưa ra những dự báo ảm đạm về thân phận của con người (Huyền thoại Sidíps của A.Camus là một ví dụ), về nguy cơ tha hóa của con người trước văn minh công nghiệp (vở kịch Những cái ghếcủa Ionessco là một ví dụ). Đặc biệt là khi người máy ra đời, đảm nhiệm những công việc phức tạp và đạt độ chính xác cao thì hình ảnh con người bằng xương bằng thịt dưới con mắt của các nhà “Kỹ trị” dường như có phần bị tha hóa trước những sản phẩm do chính mình chế tạo ra. Gần đây, khi chú Cừu Dolly ra đời và khi bản đồ gen người phát hiện, vấn đề nhân bản vô tính người được các nhà khoa học đưa ra như một khả năng có thể thực hiện đã khiến cho các nhà nhân văn, các nhà đạo đức học lên tiếng cảnh báo. Quả thực, đó không phải là những lo toan không có căn cứ. Song, chính nhờ các tiên cảm, dự báo mà trong quá trình phát triển, con người với tư cách là chủ nhân của lịch sử, là “trung tâm vũ trụ” đã không để cho máy móc lấn át vai trò của mình, trái lại, càng làm cho trí thông minh và khả năng lao động sáng tạo của con người ngày càng được đề cao bởi năng suất lao động và bởi các thao tác kỹ thuật nối dài khả năng của con người.
Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra nhiều vấn đề bức thiết, trong đó có vấn đề con người – nhân tố chủ thể quyết định tốc độ và chiều hướng phát triển. Các mối quan hệ giữa con người với cơ chế, con người với máy móc công nghệ, con người với con người, con người với sản phẩm hàng hóa, con người với môi trường sống và lao động của mình… sẽ được đặt ra và giải quyết như thế nào? Đương nhiên, không phải chỉ là mối quan tâm của các nhà triết học, kinh tế học, chính trị học, đạo đức học… mà con là mối quan tâm của các nhà văn, các nghệ sĩ mẫn cảm trước thời cuộc. Muốn hay không, thời kỳ mới của lịch sử sẽ tạo ra những hệ giá trị mới, những chuẫn mực đạo đức tinh thần mới mà hôm nay, những người mang thiên chức nghệ sĩ có thể hình dung, tiên đoán. Ngay cả những niềm vui, nỗi buồn sâu xa về số phận, thân phận của mỗi cá nhân trong cộng đồng và trước thế sự cũng luôn luôn là những ám ảnh, những nghiền ngẫm suy tư của mỗi nhà văn, mỗi nhà nghệ sỹ để trong mỗi sáng tác của mình không chỉ hiển hiện thực tại mà còn thấp thoáng hình bóng của tương lai.
Để dự báo và tiên đoán chính xác, mỗi nhà văn, mỗi nghệ sĩ, ngoài sựmẫn cảm và dự cảm gần như là thanh khí tiên thiên của mình, còn đòi hỏi phải có các khả năng chiêm nghiệm, khả năng phân tích, phán đoán để nhận thức bản chất, nắm bắt quy luật và lôgic khách quan của cuộc sống, để trên cơ sở đó nhận diện tương lai ngay từ trong thực tại. Như vậy, cũng có nghĩa là muốn thực hiện tốt chức năng dự báo, nhà nghệ sỹ, về một phương diện nào đó, phải đồng thời là nhà khoa học, trước hết là khoa học nhân văn.
N.N.T