Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 04/05/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Phê bình văn học Việt Nam bản chất và thực tiễn

T

ôi xin bắt đầu bài viết của mình từ góc nhìn của thời điểm hiện tại 2013 – một hiện tại chưa hoàn kết hay hiện tại đang tiếp diễn – cũng thế, để trao đổi về phê bình văn học. Cũng xin không dài dòng lý thuyết về các kiểu loại và trường phái phê bình từ truyền thống đến hiện đại hoặc phê bình theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp của Đông Tây kim cổ từ trước đến nay đã hiện hữu, cũng không trình bày các mô hình tiếp nhận văn học từ truyền thống đến hiện đại và hậu hiện đại mà nhiều công trình đã bàn kỹ. Ở đây, chúng tôi xin mặc nhiên xuất phát từ bản chất chuyên môn của phê bình văn học - theo nghĩa, nó là một bộ môn hợp thành của Khoa nghiên cứu văn học, bên cạnh Lịch sử văn học, Lý luận văn học và Phương pháp luận nghiên cứu văn học. Tức nó có đối tượng, phạm vi, lý thuyết và phương pháp tiếp cận khoa học riêng, có vị thế, nội dung, kiểu tư duy và thao tác làm việc riêng, ứng với từng phương pháp, trường phái phê bình văn học cụ thể.

1. Phê bình văn học – nhìn từ bản chất

Phê bình văn học hiểu theo nghĩa lý luận chuyên môn như thế sẽ giúp chúng ta khách quan, dân chủ và khoa học hơn trong việc tiếp nhận văn học với tư cách song phương là cả sáng tác và cả phê bình đều lấy trí tuệ và ngôn ngữ cũng như đặc trưng của từng thể loại văn học làm đối tượng, công cụ và thao tác để giải mã lịch sử văn học (mà cụ thể là tác phẩm văn học). Quan hệ ứng xử ở đây là quan hệ đối thoại khách quan, bình đẳng và trí tuệ để làm sao đem lại hiệu quả tối đa và khoa học cao nhất cho việc bình giá văn chương, thúc đẩy tiến trình văn học và khả năng tiềm tàng của chủ thể sáng tạo cũng như trình độ thẩm mỹ ngày càng cao của chủ thể tiếp nhận văn học (đặc biệt là của nhà phê bình văn học chuyên nghiệp, luôn làm đầy ý nghĩa bổ sung khả thủ cho tác phẩm văn học qua thời gian). Phê bình, nếu có được như thế, thì chắc chắn sẽ có tác động tích cực đến quá trình văn học của một dân tộc, làm thành lịch sử văn học và lịch sử phê bình văn học một cách đa dạng, phong phú và sáng rõ, tránh được những ngộ nhận theo lối bàn luận khen chê chủ quan, võ đoán, thiếu phương pháp và phiến diện, lệch xa nội vi bản chất của phê bình văn học. Nhà phê bình tài năng, mẫn cảm và có phương pháp khoa học sẽ phán đoán và xác quyết giá trị chỉnh thể khách quan của bản thân từng tác phẩm văn học theo tầm đón nhận và đón đợi của chính mình và cả công chúng chung quanh mình một cách hiệu quả và chính xác nhất - dựa trên ý thức thẩm mỹ và tư tưởng của từng trào lưu, từng phương pháp sáng tác mà tác giả đã tiếp thu và sáng tạo nên tác phẩm cụ thể, để chỉ ra những giá trị Chân – Thiện –Mỹ riêng của từng tác giả và tác phẩm.

Xác định phê bình văn học theo yêu cầu chuyên nghiệp và chuyên môn như trên cũng sẽ giải quyết đúng đắn những thành tựu và hạn chế của tiến trình phê bình văn học trong từng giai đoạn, từng thời kỳ. Bởi lẽ, bản chất của Khoa nghiên cứu văn học có những đặc thù riêng và biến đổi theo từng giai đoạn, nếu nó xuất hiện những giới hạn và bất cập trước sự phát triển của đời sống sáng tạo cũng như trước nhu cầu tự thân của các bộ môn hợp thành của nó, trong đó, có phê bình văn học – bộ môn ưu tiên gắn liền với đời sống văn học đương đại như một nhiệm vụ đặc thù. Biết giới hạn và khắc phục giới hạn sẽ làm cho phê bình văn học thường xuyên đặt ra những yêu cầu mới và tạo ra những bước tiến mới, trước khi, nó nhận thức những giới hạn tiếp theo mà sớm muộn gì rồi cũng sẽ diễn ra. Vậy nên Bélinski gọi phê bình văn học là “mỹ học đang vận động” là thế.

Xác định tác phẩm văn học là trung tâm của quá trình văn học bao giờ cũng giúp cho nhà phê bình xác định đúng điểm khởi hành và điểm về đích của công việc giải mã giá trị thẩm mỹ tác phẩm. Từ đó, đặt tác phẩm trong hoàn cảnh, dân tộc, môi trường, thời đại, liên hệ với kiểu sáng tác, trường phái, hệ tư tưởng văn hóa - triết mỹ cũng như ngôn ngữ, các mô hình sáng tạo... mà các tác giả chịu ảnh hưởng, tạo thành phong cách riêng, thi pháp riêng của họ trong từng tác phẩm để phê bình hiệu quả nhất. Nói như Roland Barthes: “Thực ra, làm sao có thể tin được tác phẩm văn học là  đối tượng  nằm bên ngoài tâm lý và lịch sử của con người đang truy vấn nó, tựa như nhà phê bình có quyền đứng ngoài mối quan hệ với nó? Mối quan hệ sâu xa giữa tác phẩm đang được nghiên cứu và tác giả của nó mà đa số các nhà phê bình thiết lập được bằng một cách thần kỳ nào đó liệu có mất đi sức mạnh tương ứng với sáng tác riêng và thời đại riêng của chúng? Liệu có chuyện những quy luật sáng tạo dành cho nhà văn, thì không dành cho nhà phê bình? Lời luận bàn của mọi loại phê bình dứt khoát phải hàm chứa cả sự bàn luận về chính bản thân nó,<…>, phê bình tác phẩm bao giờ cũng là sự phê bình; diễn đạt theo cách chơi chữ của Claudel, sự nhận thức người khác diễn ra trong sự đồng – sinh với nó trên cõi thế”(1). Nhà phê bình hiểu và nhập vai được với tác giả để hiểu tác phẩm và thông diễn ý nghĩa tác phẩm với tinh thần như thế sẽ tạo ra những “trình tự liên tục của những động tác tư duy bám sâu vào sự tồn tại lịch sử và chủ quan (thực ra cũng chỉ là một) của con người đang thực hiện và đảm nhiệm các động tác ấy”(2) để nhận thức và cũng để “giảm trừ hiện tượng học” nhằm “gạt đi tất cả ngộ nhận, định kiến lẫn kinh nghiệm áp đặt vào sự vật, nhằm khám phá ra bản chất chân thực của nó”(3). Đó là yêu cầu cao đối với nhà phê bình chuyên nghiệp, dựa trên vốn sống, vốn văn hóa, vốn triết mỹ - nghệ thuật liên ngành mới mong đạt kết cao trong nghiên cứu....

Vì vậy, vượt qua những rào cản về thiết chế xã hội, chính trị, đạo đức, thị hiếu… để tiếp cận và giải mã tác phẩm văn học như yêu cầu vừa nêu trên từ tính chỉnh thể tự trị của nó, thì không gì ngoài ngôn ngữ - tức nhất định phải thông qua chất liệu ngôn ngữ (yếu tố tạo nên tính văn chương, tính thi ca như R. Jakobsonc xác quyết. Đây chính là mục tiêu và yêu cầu khoa học khách quan trong quá trình phê bình văn học của bất cứ nhà phê bình nào. Giải mã cho được giá trị thẩm mỹ của tác phẩm theo tinh thần lao động sáng tạo nghệ thuật ngôn từ của tác giả là một công việc gian khó, vì ngôn ngữ bao giờ cũng là một hệ thống ký hiệu thẩm mỹ đa nghĩa, tạo thành hình thức chuyển tải tốt nhất ý nghĩa, nhưng khồng phải dễ dàng nhận ra ý nghĩa sát đúng với  từng phạm vi hiện thực được phản ánh và mục tiêu tư tưởng của tác giả. Điều đó tạo ra những thử thách cho người đọc và cho cả nhà phê bình, vì nó (hệ thống ký hiệu ngôn ngữ) “gần như đầy ắp ý nghĩa, nó hiện ra công nhiên trước người đọc như một hệ thống biểu nghĩa, nhưng lại không để anh ta cầm nắm như một đối tượng được biểu nghĩa”(4). Nhưng mục đích cụ thể của phê bình văn học nhất định phải chỉ ra được hoặc gần được ý nghĩa tự trị của ngôn ngữ như thế thì mới xác lập được những giá trị mỹ học của tác phẩm nhằm nâng cao và định hướng thẩm mỹ cho công chúng độc giả, nếu không thì mọi kết quả cũng chỉ là giá trị ảo, vô tăm tích. Điều này cũng được Roland Barthes luận thuyết có cơ sở như những định hướng bản chất cho nhà phê bình: “Thực ra, khi đã thừa nhận chỉ là một ngôn ngữ, theo bản chất đầy mâu thuẫn của mình, phê bình có thể hợp nhất trong bản thân tính chủ quan và tính khách quan, tính lịch sử và tính hiện tồn, chủ nghĩa cực quyền và chủ nghĩa tự do. Thế mà một mặt, ngôn ngữ được nhà phê bình lựa chọn và sử dụng lại chẳng rơi xuống từ trên trời, đó là một trong số những ngôn ngữ thời đại trao cho anh ta, cái ngôn ngữ khách quan ấy là sản phẩm của những tri thức, những tư tưởng, những khát vọng tinh thần đạt tới độ chín muồi lịch sử, nó là cái thiết yếu, nhưng mặt khác, nhà phê bình lại chọn cho bản thân cái ngôn ngữ thiết yếu ấy theo cơ cấu sinh tồn của mình, lựa chọn như một sự thực hiện chức năng trí tuệ không tách rời nào đó của bản thân, khi anh ta sử dụng đầy đủ toàn bộ chiều sâu, tất cả kinh nghiệm lựa chọn, hưởng thụ, chối bỏ và sự ám ảnh. Bằng cách ấy, phê bình có thể mở ra trong tác phẩm cuộc đối thoại giữa hai thời đại lịch sử và hai chủ thể - tác giả và nhà phê bình”(5). Đó chính là mục tiêu và cũng là thử thách lớn dành cho những nhà phê bình tài năng.

2. Phê bình văn học Việt Nam – nhìn từ thực tiễn

Phê bình văn học nhân loại, đến nay, được các nhà nghiên cứu xác nhận là đã trải qua ít nhất là ba giai đoạn chính: 1) giai đoạn truyền thống, tiếp cận tác phẩm từ tác giả, 2) giai đoạn tiền hiện đại, tiếp cận tác phẩm từ chính bản thân tác phẩm và 3) giai đoạn hiện đại và hậu hiện đại, tiếp cận tác phẩm từ độc giả. Tương ứng với các giai đoạn trên là sự tồn tại của hai hệ hình nghiên cứu: từ tác giả sang tác phẩm và từ tác phẩm sang độc giả trên cơ sở thay đổi hiện thực cuộc sống, đối tượng văn học, quan niệm triết mỹ, môi trường văn hóa, sự vận động của ngôn ngữ, phương pháp tư duy cũng như thay đổi phương pháp sáng tác và phê bình...

Tiếp thu và ứng dụng các nền phê bình văn học thế giới, phê bình văn học Việt Nam đã có những khởi động, phát triển và thành tựu tiệm tiến từ đầu thế kỷ XX đến nay qua việc tiếp thu và ứng dụng các phương pháp phê bình và trường phái phê bình hiện đại thế giới vào việc nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam trung đại và hiện đại. Dĩ nhiên là trong thành tựu, bao giờ cũng có những hạn chế, bất cập và  có những trường hợp thất bại. Chúng tôi xin khái lược những thành tựu của phê bình văn học hiện đại Việt Nam, trước khi nói thực trạng và những giới hạn, bất cập của nó.

Khởi đầu là giai đoạn 1930 - 1945, phê bình văn học Việt Nam đã hình thành cùng với quá trình hiện đại hóa với tốc độ nhanh của văn học mà tiêu biểu là Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn. Giai đoạn này, do bước đầu tiếp xúc với phương Tây, chủ yếu là văn hóa Pháp nên có những xen ghép giữa biên khảo và phê bình, tức có dung hòa cũ - mới, Đông - Tây cho phù hợp với công chúng tiếp nhận, dù các nhà Tây học cũng muốn đổi mới, nhưng thực tế, họ vẫn không nhuần nhuyễn và đạt hiệu quả cao vì sự tiếp thu bước đầu cũng chưa triệt để, chưa hình thành được những thao tác tư duy khoa học chính xác, có trường hợp rơi vào cực đoạn, chủ quan. Không kể các nhà Nho học làm phê bình, khảo cứu, chỉ tính những nhà phê bình nghiêng về Tây học, thì những gương mặt tiêu biểu phải kể đến là Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng ở thời gian đầu phê bình và tranh biện xung quanh tác phẩm Truyện Kiều. Kế đến, là Thiếu Sơn với thành tựu và quan niệm phê bình mới khi xem trọng tính thẩm mỹ của văn chương qua công trình Phê bình và Cảo luận các tác giả văn học hiện đại Việt Nam.

Kế đến là thành tựu của phê bình ấn tượng chủ nghĩa mà đỉnh cao là Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam – công trình phê bình các nhà thơ mới với một cảm quan nghệ thuật - thẩm mỹ theo lối ấn tượng chủ quan “lấy lòng tôi để hiểu lòng người” một cách tinh tế và tài hoa.

Tiếp đến là phê  bình tiểu sử. Nó có tác dụng hướng nhà phê bình ý thức đến hiệu quả khách quan, khoa học của việc phê bình. Họ chú trọng “mối quan hệ tác giả - tác phẩm, coi tác giả là yếu tố quy định tác phẩm theo nguyên lý nhân quả”(6). Vì vậy, cuộc đời riêng và quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội, tôn giáo... của tác giả có ý nghĩa lớn trong việc liên hệ để bình giá tác phẩm. Ở kiểu phê bình này, có nhiều người theo đuổi, nhưng Trần Thanh Mại là tiêu biểu nhất với công trình Trông dòng sông Vị, Hàn Mặc Tử - Thân thế và thi văn. Có thể kể thêm Lê Thanh với Thi sĩ Tản Đà, Cuộc phỏng vấn các nhà văn...Dù còn những hạn chế và giới hạn nhất định, nhưng phương pháp phê bình này sẽ thúc đẩy việc xuất hiện phương pháp phê bình văn hóa – lịch sử như là hướng phát triển bổ sung mà Vũ Ngọc Phan là ngưởi chịu ảnh hưởng và vận dụng nhuần nhuyễn nhất trong công trình Nhà văn hiện đại. Ông là người chịu ảnh hưởng sâu lý thuyết phê bình văn học của G. Lanson.

Trương Tửu cũng là gương mặt sáng giá giai đoạn này, dù ông chịu ảnh hưởng trực tiếp phương pháp của H. Taine với Nguyễn Du và Truyện Kiều. Phương pháp phê bình xã hội học xuất hiện ở phương Tây với thời gian dài và sau đó vào Việt Nam thành phê bình xã hội học – Mácxít mà Hải Triều là chủ lĩnh tiên phong, tạo ra cuộc tranh luận sôi nổi “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” kéo dài đến năm 1939. Và kéo dài suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến chống Mỹ với nhiều tác giả và tác phẩm tiêu biểu (chúng tôi không thể kể ra hết trong bài viết ngăn này) có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình sáng tạo và tiếp nhận văn học, trước khi có sự chuyển đổi hệ hình phê bình trong giai đoạn đổi mới, với sự vận dụng các phương pháp phê bình mới chủ yếu từ phương Tây cùng nhân tố quyết định đầu tiên là ý thức đổi mới phê bình văn học một cách mạnh mẽ của chủ thể phê bình.

Các phương pháp nghiên cứu và phê bình mới tiếp tục xuất hiện sau đổi mới đã làm cho đời sống học thuật, phê bình sôi nổi và có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy và hiện đại hóa đời sống văn chương nước nhà như phê bình phong cách học mà tiêu biểu là Phan Ngọc với  Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, phê bình thi pháp học với nhiều nhà phê bình như Trần Đình Sử với Thi pháp thơ Tố Hữu..., Đỗ Đức Hiểu với Thi pháp hiện đại..., Đỗ Lai Thúy với Mắt thơ...và nhiều tác giả tên tuổi khác cũng vận dụng thi pháp học để phê bình văn học trung đại và hiện đại đạt được những thành tựu nhất định. Rồi tiếp tục là các phương pháp khác được ứng dụng trong nghiên cứu văn học liên tục xuất hiện như phê bình phân tâm học, phê bình từ văn hóa học, tự sự học, liên văn bản, nữ quyền luận, môi trường luận, ký hiệu học, thông diễn học, ngôn ngữ học, chủ nghĩa cấu trúc, văn học so sánh… và phê bình theo tầm sáng tác văn học hậu hiện đại... Nhìn chung, mỗi phương pháp đều ít nhiều có thành tựu nhất định.

Như vậy, nhìn tổng thể trong tính lịch đại và đồng đại, không thể nói phê bình văn học Việt Nam không đạt được những thành tựu lớn. Đời sống phê bình sôi động hơn, không khí tranh luận học thuật có tác dụng và dân chủ hơn, các cuộc hội thảo được tổ chức liên tục hơn. Qua đó, nhận thức và ý thức của giới phê bình được củng cố, được định hướng cụ thể và quan trọng hơn là mỗi người đã nhận ra những mặt mạnh và yếu của mình để khắc phục giới hạn, nhằm thúc đẩy công tác phê bình tiến lên. Chỉ riêng từ đổi mới 1986 đến nay, số lượng nhà phê bình chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp đã tăng lên đáng kể. Đó là nhân tố quan trọng đầu tiên quyết định sự thành công của phê bình, dẫn đến số lượng tác phẩm phê bình văn học ngày càng xuất hiện nhiều với phương pháp và chất lượng cao, được công chúng độc giả đón nhận nồng nhiệt, có tác động vẫy gọi tích cực đến kết quả nghiên cứu và phê bình của xã hội và nhà trường, đặc biệt là ở môi trường đại học. Liên tục xuất hiện những bài phê bình, những công trình, chuyên luận nghiên cứu có giá trị, do các tác giả đã vận dụng có sáng tạo những phương pháp nghiên cứu văn học nói trên và biến nó thành thao tác khoa học trong nghiên cứu tác giả, tác phẩm, khuynh hướng, trào lưu, trường phái. Phê bình văn học ở nước ta đã có bước phát triển mới, đạt đẳng cấp cao.

Nhưng nghiêm túc và theo yêu cầu có tính chuyên nghiệp cao của phê bình như đã đặt ra ở phần 1 mà nói, thì bao giờ trong thành tựu cũng tồn tại những giới hạn và khiếm khuyết nhất định, có lúc lại là giới hạn căn bản kéo dài. Chẳng hạn như tình trạng phê bình không theo kịp sáng tác, không bám vào đời sống văn chương đương đại để giải mã giá trị mới của văn chương, để định hướng thẩm mỹ cho người đọc; chưa kịp thời tổng kết, khái quát một cách khoa học bản chất của sáng tạo và phê bình trong từng thời kỳ, giai đoạn. Có khi lại diễn ra những tranh luận ngoài lề, không vì văn chương học thuật trọng tâm, dẫn đến những phân hóa trong nhận thức và hành động. Nhiều trường hợp, ta chưa cập nhật và xác định vị trí của chúng ta trong tương quan với quốc tế và khu vực một cách cụ thể. Chính điều này có lúc dẫn chúng ta đến chỗ bất cập hoặc thái quá trong nhận thức vấn đề. Mà cả hai đều là không ổn, không khách quan. Chúng ta phải liên tục nhìn lại và liên tục thể nghiệm, đổi mới, cập nhật chính bản thân phê bình trong nước và thế giới để tiến lên, tránh vận dụng một cách máy móc những gì từ phương Tây, nhưng đã tỏ ra lỗi thời hoặc chúng không có tác dụng hữu hiệu với tình hình cụ thể của văn học và  thị hiếu thưởng thức thẩm mỹ ở nước ta trong từng thời điểm.

Từ những thực tế trên, công tác định hướng phê bình và tiếp nhận phê bình văn học hiện nay ở nước ta nên và phải có những giải pháp thiết thực và hiệu quả để làm cho văn học thực sự có vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần, tạo ra mặt bằng văn hóa đọc và thưởng thức văn chương, học thuật một cách khách quan và khoa học cho người tiếp nhận? Có lẽ phải bắt đầu từ thức nhận vấn đề bản chất của mối quan hệ giữa tác giả - tác phẩm - độc giả. Mối quan hệ móc xích bộ ba này, theo tôi, bao giờ cũng là đầu mối của việc xác định công tác lý luận và phê bình văn học của bất kỳ nền văn học nào. Bởi ở đây, bao giờ cũng hiển minh nội dung tư tưởng của tác phẩm thông qua các phương thức, phương tiện thể hiện tác phẩm bằng ngôn từ. Mà ngôn từ chính là phương tiện thứ nhất của văn học, chứa đựng nội dung, biểu hiện tư tưởng. Nó là vỏ vật chất của tư duy mà khi sáng tác, người nghệ sĩ đã cho nó một quan niệm, những ý nghĩa thẩm mỹ tự trị nào đó rồi. Đến lượt người đọc, đặc biệt là người đọc cao cấp sẽ lần lượt làm đầy những ý nghĩa và giá trị bổ sung cho tác phẩm tùy trình độ, điểm nhìn, tâm thế và phương pháp tiếp cận của từng người. Chỉ có đặt tác phẩm trong quan hệ bộ ba nói trên trong đối chiếu với trường hiện thực thẩm mỹ, tư tưởng sáng tạo, nguyên tắc sáng tác và phương pháp sáng tác của từng nhà văn, từng tác phẩm thì mới có thể giải mã tác phẩm chính xác và nghệ thuật được.

Cũng chính quan niệm như trên, chúng ta sẽ dễ dàng điều chỉnh quan hệ bộ ba trên theo từng thời kỳ và giai đoạn văn học. Đề cao tác giả hay đề cao người đọc ở từng thời kỳ văn học phải căn cứ vào nhiều yếu tố và điều kiện. Mô hình mỹ học tiếp nhận truyền thống đề cao vai trò của tác giả tồn tại suốt thời kỳ dài, sau đó nhường chỗ cho vai trò của người đọc theo mô hình mỹ học tiếp nhận hiện đại. Thì đến ngày nay, với các sáng tác vận dụng theo lý thuyết văn học hậu hiện đại của các tác giả trên thế giới và Việt Nam thì mô hình người đọc hiện đại lại cũng xuất hiện những giới hạn. Giới hạn của sự hiểu, sự đọc văn bản. Vậy chỉ có sự cộng hưởng, cộng cảm và cộng đồng diễn giải của tác giả và độc giả thì mới mong giải mã tác phẩm một cách chính xác và tối đa được, bởi vì tác giả là chủ thể liên tục thể nghiệm và sáng tạo những tác phẩm theo phương pháp và cách thể hiện mới lạ; có khi đó là trò chơi ngôn ngữ và hình tượng thì làm sao độc giả, kể cả độc giả cao cấp – nhà phê bình chuyên nghiệp lúc nào cũng có thể hình dung kịp mô hình sáng tạo của những tác giả sáng tác theo mô hình lý thuyết hậu hiện đại được, nếu không có sự cộng đồng diễn giải của tác giả.

Vậy là về mặt lý thuyết và thực tiễn, trong hoàn cảnh văn học hiện đại và hậu hiện đại hiện nay, cần phải thấy những giới hạn của quá trình tiếp nhận văn học để khắc phục giới hạn. Có như vậy, khoa Nghiên cứu văn học mới đề xuất được những hệ thống lý thuyết mới, phù hợp với thực tiễn sáng tạo đang không ngừng vận động và đổi mới.

Vậy để phê bình văn học thực sự năng động và đáp ứng nhu cầu phát triển cấp thiết của lĩnh vực này, trước mắt cũng như lâu dài, chúng tôi xin đề xuất những vấn đề sau:

- Trước hết, về mặt nhận thức, nền phê bình nước ta phải tự ý thức và đổi mới toàn diện hơn nữa theo tinh thần hiện đại, khoa học và sáng tạo từ các thành tựu lý luận và phê bình của thế giới trên cơ sở bám sâu vào thực tiễn sáng tạo và văn hóa Việt Nam để những kết quả nghiên cứu, phê bình thực sự là những sáng tạo mới, giá trị mới, tín hiệu mới theo tầm đón nhận và đón đợi mới của độc giả, đặc biệt là độc giả chuyên sâu.

- Kế đến, về mặt hiệu quả của phê bình, cần phải quan tâm đến bản chất của sáng tạo và tiếp nhận văn học để giải quyết một cách khách quan và nghệ thuật mối quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ, từ đó phát hiện đúng giá trị tư tưởng của tác phẩm văn học từ thế giới hình tượng và ngôn từ nghệ thuật, tránh tán bình theo lối ấn tượng chủ quan, xa rời với chỉnh thể văn bản.

- Thứ đến, về mặt đa dạng hóa kết quả phê bình, cần phải tôn trọng và phát huy những giá trị, kết quả nghiên cứu khác nhau do phương pháp tiếp cận khoa học khác nhau cũng như do thực tế và quan niệm riêng của từng nhà phê bình. Đó chính là yêu cầu cao của nhu cầu tiếp nhận văn học hiện đại để không những nâng cao trình độ sáng tác của nhà văn, nhà thơ mà còn là nâng cao trình độ nhận thức thẩm mỹ của người đọc nói chung.

- Thứ nữa, về mặt tập hợp và bồi dưỡng đội ngũ những người làm công tác phê bình, cần phải quan tâm đến công tác động viên, phát huy tính trung thực, tính đẳng cấp và tính nhân văn trong nghiên cứu và phê bình để phát hiện, khẳng định đúng giá trị của tác phẩm, cố gắng tránh sự phát hiện sai và nhận định lệch, làm nhiễu lượng thông tin về tác phẩm nào đó đối với người đọc. Muốn vậy, tổ chức phải có kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn thường xuyên, có hiệu quả cho những chủ thể phê bình văn học, đặc biệt cho học tập ở các nước có nền lý luận, phê bình văn học tiên tiến.

- Cuối cùng, về mặt bằng phê bình văn học trong cả nước, cần chú trọng đến các địa phương. Ở nước ta, mỗi tỉnh đều có Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật, trong đó, lực lượng sáng tác văn học là đông và mạnh nhất, nhưng những người làm công tác phê bình văn chương thì vô cùng mỏng. Ngoài những tỉnh lớn, có các trường đại học trên địa bàn, đội ngũ giảng viên văn học ở các khoa Ngữ văn kiêm thêm công tác phê bình văn học địa phương, còn những tỉnh khác chỉ là bạn văn, bạn thơ phải làm công việc này. Vậy là có thực tế so le phê bình ở trung ương và địa phương. Phê bình truyền thông, báo chí, chủ quan, thiếu phương pháp luận và thao tác luận rơi vào các địa phương. Như vậy, những giá trị văn học địa phương thường không hiện diện trong mặt bằng chung của văn học cả nước. Đó là một thiệt thòi cho văn học một vùng đất. Và cũng là thiếu khuyết cho diện mạo chung của văn học cả nước.

Phê bình văn học, suy cho cùng, thời nào cũng có, giai đoạn nào cũng tồn tại đồng hành cùng với sáng tạo văn học. Có nhu cầu sáng tạo là có nhu cầu thưởng thức, phê bình. Còn hình thức và cách thức, phương pháp và thủ pháp thì luôn vận động, biến đổi và hoàn thiện theo thời gian, theo trình độ phát triển của tư duy. Phê bình văn học trên thế giới hiện nay đang trên đà tiếp tục phát triển và thành tựu. Nền phê bình văn học hiện đại ở ta đã thực sự năng động và hội nhập với phê bình văn học thế giới một cách sáng tạo, đã thực sự tạo ra những thành tựu đáng kể. Nhưng như một quy luật hiển nhiên, không có thành tựu nào lại nhất thành bất biến, mà luôn có phá và thay, có cố định và bổ sung, có vận động và phát triển, có giới hạn và khắc phục giới hạn. Mong muốn của những người làm công tác nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam hiện nay là luôn đồng hành cùng lý luận văn học, lịch sử văn học cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, nhất là lĩnh vực văn hóa để tiếp tục khẳng định vị trí và chức năng của mình trong việc giải mã những giá trị lớn của văn học quá khứ và hiện đại – đặc biệt là văn học đương đại theo trình độ và phương pháp tiếp cận tối ưu và đa dạng trong khả năng có thể của mình.

               H . T . H

 

 

 

 

 

 

Chú thích

----------------

(1), (2), (4), (5): Lã Nguyên (tuyển dịch), 2012, Lý luận văn học – Những vấn đề hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội

(3), (6): Đỗ Lai Thúy, 2011, Phê bình văn học con vật lưỡng thê ấy, Nxb Hội nhà văn – Nhã Nam, Hà Nội 

 

Hồ Thế Hà
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 227 tháng 08/2013

Mới nhất

Hòn ngọc Bali giữa biển xanh

30/04/2024 lúc 17:44

 Người Việt đi du lịch Bali, hầu như chỉ biết đến những bãi tắm xa

Tự do xanh quá, mênh mông quá

30/04/2024 lúc 04:11

Thơ ca không phải là ghi chép lại lịch sử nhưng lịch sử qua thơ mang một vẻ đẹp bất ngờ và độc đáo không thể hình dung hết. Tuy nhiên, để làm được điều đó, thi sĩ phải thực sự tài năng và có cơ hội tiếp cận được hiện thực lộng lẫy trong những thời khắc có một không hai của lịch sử. Hai mươi năm đánh trận trường kỳ, cả dân tộc không đêm nào ngủ được, cả dân tộc hành quân ra trận, cả dân tộc đội triệu tấn bom để hái mặt trời và có ngày Chiến thắng 30 tháng tư năm 1975, cũng là ngày mở ra cánh cửa hòa bình, thống nhất non sông cho đất nước.

Trên đất đồi đã thôi thuốc súng

28/04/2024 lúc 16:38

Để thấy sự hồi sinh của một vùng đất, đôi khi phải làm khách vãng lai quan sát. Nhận ra

Mùa hoa chêng đỏ

28/04/2024 lúc 16:33

Chưa bao giờ chêng nghĩ mình là một loài hoa được nâng niu, chiều chuộng, cũng không mơ được

Trận pháo kích Cứ điểm 241

28/04/2024 lúc 16:31

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ, miền

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

05/05

25° - 27°

Mưa

06/05

24° - 26°

Mưa

07/05

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground