Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 11/12/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Thi sĩ Tường Đông, một thi nhân đã bị lãng quên

T

rước hết xin nói ngay để khỏi phiền lòng bạn đọc. Kẻ viết bài này không phải là một nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật chi cả, lại càng non kém trong một lãnh vực khó hơn đó là thi ca. Từ đầu đã khẳng định là không lấy mớ kiến thức tạp nham của mình để làm sáng tỏ hơn về một thi nhân đã bị quên lãng qúa lâu... như cuộc đời, thân phận và những mối quan hệ bạn bè của ông, sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Đơn giản tôi chỉ là một người yêu văn thơ và may mắn đang lưu giữ một số bài thơ của ông, mà mỗi khi đọc lại không khỏi rung động và thầm nghĩ mình đang cầm một báu vật trên tay. Người đời lắm lúc cố công đi tìm kiếm để lưu giữ những đồng xu tiền cổ- tất nhiên là không phủ nhận những giá trị vật chất hoặc lịch sử của nó- Thế thì một thi sĩ đã được Hoài Chân- Hoài Thanh từng nhắc tới trong Thi Nhân Việt Nam tất nhiên là không giám trách sự quên lãng của đời người. Vì tuy Hoài Chân- Hoài Thanh có nhắc tới ông nhưng lại không trích dẫn một bài thơ nào của ông cả. Mà đời ông ghi lại “Mà đời tôi là đời của chim ngàn/ Nên sực nghĩ thân mình mà ngán tủi” Trong khi đó tôi lại có may mắn đang có trong tay khoảng chục bài thơ của ông. Nếu cứ giữ như một kỷ vật trong tủ sách của mình để thời gian gần bôi xóa thì thật là một tội lớn. Lại nghĩ trong muôn vàn sự quên lãng của đời người, sao nỡ quên đi một nhà thơ. Cái điều mà với linh cảm của một thi sĩ ông đã viết.

Còn ai ai biết đề thơ

Đạm Tiên mất tích Kiều thơ chẳng còn

Rồi thì cả khối tình con

Ngàn năm cũng chẳng hao mòn đi đâu

Thi nhân Việt Nam (lấy quyển tái bản mới nhất, lần tái bản thứ 21 nhà xuất bản Văn học tháng 09 năm 2003, trang 36). Hoài Chân- Hoài Thanh đã nhắc đến như sau:

Chung quanh đôi bạn Xuân Diệu, Huy Cận có vô số thi sĩ bàn nhì bàn ba: Tế Hanh, Huyền Kiêu, Đình Hùng, Phan Khắc Khoan, Thu Hồng, Nguyễn Đình Thư, Xuân Tâm, Huy Tân, Huy Chức, Phan Thanh Phước, Nguyễn Đức Chính, Tường Đông... Oái oăm thay trong số những cái tên được nhắc ở đây không ít người đã may mắn đọc được thơ của họ, nhưng Tường Đông thì lại không! Bài viết này chỉ nhằm một mục đích là giới thiệu nhà thơ đến với mọi người.

Tường Đông tân thật là Đoàn Văn Bá sinh năm 1918 tại làng Ưu Điểm huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên. Ông học trường Quốc học, đổ bằng Thành chung.

Ông không làm cho một công tư sở nào, mở lớp dạy học, học ban tú tài. Trong số những anh em của ông: Đoàn Anh Hào, Đoàn Đình Dương, Đoàn Thái Hoè học hành đổ đạt mà sự nghiệp và đường đời bằng phẳng... Ông lại chọn cho mình một lối đi gập ghềnh chông gai. Gót chân lãng tử đưa ông đi khắp nơi lấy thơ, bạn và sóng nước làm lẽ sống. Trong thơ bảng lãng nét lãng du hiệp khách

Trong làn khói bạc nức mùi hương

Tráng sĩ hôm nay bước lạc đường

Mượn tạm nơi này làm quán họ

Để hồ rủ áo hố phong sương

                                      (Hương trầm)

Đọc những bài thơ như: Hương trầm, Đêm nhà thương, Uống nước dừa, Cây xoan cuối thu, Đi đêm, Chùa An Lạc. Người đọc dễ nhận thấy ông là con người của sương gió. Bước chân hành giả lang thang để thoả chí giang hồ? Đi tìm lẽ sống? Hay là sự đoạ đày mà kiếp thi nhân phải chịu?!

Trên bến cô đơn giữa thế thường

Tôi là viễn khách của ngàn phương

Hôm nay tạm lánh đông bắc tuyết

Tôi gạt thầm. Em! Lệ thảm thương

                                     (Hương trầm)

Khác với những bài thơ cùng thế hệ. Nói như nhà văn Từ Sơn (Con trai của Hoài Thanh). Họ (Những nhà thơ trong Thi nhân Việt Nam)  đắm chìm trong mơ mộng vẩn vơ và ta có cảm giác họ là những người sung sướng, đầy đủ và nhàn rỗi. Tuy không phải được như vậy chăng nữa thì ít ra họ cũng có một nơi chốn yên ổn để làm thơ, làm việc và trầm tư... Thì đấy Thế Lữ viết văn viết báo trong Tự lực văn đoàn, Phong hóa, Ngày nay, Tinh Hoa. Vũ Đình Liên tham chánh Hà Nội. Lam Sơn ở Sở công chánh Hải Phòng. Xuân Diệu làm tham tá ở Mỹ Tho. Hàn Mặc Tử làm ở Nam Phong, dạy học... Còn Tường Đông mãi miết trên những dặm đường heo hút...

Rồi đó năm năm đến một lần

Phận nghèo huý nhật của bày dâng

Vài hàng thơ khóc hương hồn cỗ

Để lại lang thang giữa bụi trần

                                       (Quan san)

Quán họ, điếm canh là nơi ông thường ghé lại để dừng bước giang hồ

Trần thế còn tràn những khổ thương

Đây người ngồi khóc bến Tầm Dương

Đó chàng trai trẻ không quê quán

Nằm tạm trường canh bến dọc đường

                                      (Dặm đường)

Đến đây tôi chợt hiểu vì sao thơ Ông thất lạc nhiều. Mặc dầu Ông được Nguyễn Tiến Lãng, một danh sĩ, một người bạn thân đánh giá Ông là con người tài hoa vô cùng. Hàn Thu Nguyễn Tiến Lãng- Tường Đông Đoàn Văn Bá (Người quen thường gọi là cặp Thu Đông) mà trên bước đường phiêu bạt Ông đã có những lời thơ tâm huyết vọng về bạn như sau:

Quê hương trăm dặm quê nhà chơi vơi

Tưởng khi góc biển chân trời

Còn người để chắp những lời nước non

                                           (Chia tay)

Trong bài Đêm nhà thương viết để trả lời bài Thu của Hàn Mạc Tử. Cho ta thấy sự bi thương của kẻ lạc lỏng bơ vơ khi phải lâm trọng bệnh. Ông có biết mẹ già mỏi mắt ngóng trông đứa con phiêu lãng của mình với những giọt lệ ngày đêm. Đáng thương thay! Đáng giận thay!

Rồi tôi khóc trong khi anh bỡ ngỡ

Cho dòng châu điểm hạt dưới mi tôi

Thảm thương chi thấy bà mẹ ngồi

Rồi nắng tắt sân chiều về chậm rải

Mắt phương trời bà mẹ tựa bên sông

Tưởng con mình tuy gặp bước gian vong

Vẫn còn sống trong dòng đời cuộn chảy

Vì nghĩ thế nên khôn ngăn lệ chảy

Trong nhà thương sùi sụt tiếng khóc khuya

                                     (Đêm nhà thương)

Đọc những câu thơ trên, sao tôi cứ ái ngại và thương cảm một kiếp tài hoa. Đây quả là một nỗi buồn đau trần thế. Một kẻ sa cơ lỡ bước, một anh hùng gươm giáo nơi sa trường, một chiến sĩ xã thân vì quê hương dân tộc. Trong giờ phút giữa cái sống và cái chết, Mẹ là, nỗi nhớ quay quắt, quặn lòng và hình ảnh mang theo của những đứa con. Ở đây ta không hiểu Hàn Mạc Tử tới thăm ông khi ông bị bệnh, hay là sự đưa đẩy của số mệnh để hai người gặp nhau nơi chốn tai ương của cuộc đời.

Cuộc đời con người có thể chia ra từng giai đoạn “Bỉ cực- thái lai”

Nhưng những gì tôi đang có trên tay cho ta thấy hình ảnh của một bộ hành cô đơn đi mãi. Hình như có một thôi thúc nào đấy với ông “ Hỡi người, Người sinh ra không phải để yên nghỉ mà là lên đường...” (lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường).

Trong bài “Uống nước dừa” cho ta thấy người bộ hành đã có vẻ chồn chân, nhưng nhất quyết không chịu dừng lại

Đừng pha nữa! chị ơi đừng mời nữa

Bởi giang hồ nên mới gặp nhau đây

Chốn đoàn viên đâu phải ở nơi này

Đây quán trọ cùng những phường bất hạnh

Mở hết cửa cho gió xuân rờn lạnh

Làn da dâu bởi nắng giải ngày hè

Cả đời tôi là một cổ loan xe

Lòng hiệp nữ là những nhà ga tạm

Rồi bánh chuyển xe không cần máy hãm

                                          (Uống nước dừa)

Không hiểu ông chạy đuổi một lý tưởng, hay chỉ là một ảo ảnh? Cớ sao như kẻ tha phương không cửa, không nhà đến niềm tâm sự cũng không biết ngõ cùng ai

Một mình ngày tháng ngang tàng

Đêm đêm chỉ thấy trăng vàng mà thôi

Hoặc

Còn ai ai biết đề thơ

Đạm Tiên mất tích Kiều thơ chẳng còn

Rồi thì cả khối tình con

Ngàn năm cũng chẳng hao mòn đi đâu

      (Trả lời bài Dòng dư lệ của thi sĩ Nguyễn Bính)

Nhà thơ giữ riêng cho mình một nỗi niềm sâu kín và lầm lủi đi tìm. Để thơ theo bước chân phiêu lãng như những chiếc lá bay mất vào hư không và những dòng nước mắt rơi xuống trần gian. Những giọt nước mắt trong trẻo dấu sau bộ mặt phong trần nhưng không dấu được cốt cách của giống nòi thi sĩ. Con người là một sinh vật yếu đuối. Huống chi ông lại là một thi nhân

Ngang tàng, khí phách đến mấy cũng không chịu được bảo táp và sầu thảm. Không còn cái dũng khí ban đầu như:

Một đoá bèo trôi lạc giữa dòng

Nước dồn sóng vỗ thị như không

Thênh thang mặt nước trong veo mặt

Xa tít trùng khơi vững một lòng

Thương giống lệ dương, e bão vũ

Trách dòng lau sậy phụng ba phong

Trôi đi rồi lại trôi về bến

Mặt vẫn tươi dòn giữa tố dông

                                  (Cái bèo)

Trong bài ví mình với cây xoan cuối mùa. Ông đã nhận ra mình đích thực

Chiều hôm nay thu ngự đến đó rồi

Cành và cánh xơ tàn như mái rạ

Và trơ bóng một mình đơn chiếc lạ

Trên bờ sông hổ thẹn ngắm mình xơ

       (Cây xoan cuối mùa, viết cho Nguyễn Tiến Lãng)

Ngay từ đầu tôi đã giữ lới hứa là không lạm bàn về thơ, nhiều khi cũng muốn xem vào một vài ý. Nhưng đọc sách xưa thấy cách ứng xử của cổ nhân càng thận trọng hơn. Nghĩ mình tài năng phải đứng hằng trăm dặm mới dám ngó nhìn Sương Dĩnh. Thời vận phải nhiều kiếp mới được nâng áo Bào Sinh. Lý luận thì hở hang, chỉ phải vấp phải nghi ngờ từng đống. Các vị ấy đã từng đi lại tại vườn văn, bơi lội trong rừng nghĩa, thế mà lời nói khiêm nhã, thận trọng từng chút. Trả lời xằng bậy chỉ làm bẩn vẻ đẹp của văn đàn. Ta lờ mờ thấy sự ẩn hiện phế hưng và sự chìm nỗi mà Ông đã trãi.

Có kẻ nghi ngờ hay là Ông hoạt động chính trị? Thật là một ý nghĩ quái lạ. Không có một nhà chính trị nào lại suốt đời vờn với chiếc bóng của riêng mình. Vì thế kẻ viết bài này chỉ dám nói những gì mà mình biết cụ thể, không dám liều lỉnh làm chuyện vọng tưởng đi tìm huyền châu là vậy. Ở đây tôi chỉ trăn trở về một kiếp người với nhiều câu hỏi trong đầu (???...). Nếu cứ lấy cái thường tình mà luận với học vấn của ông. Ông có thể sống như những nhà văn, nhà thơ cùng thời đại và biết đâu tên tuổi và văn thơ của ông đã có chân đứng trong thi đàn Việt Nam mà không phải chỉ là cái bóng mờ chìm khuất trong lớp bụi thời gian. Chúng ta vẫn biết thi nhân lấy sự rong chơi làm thú tiêu khiển và tìm cảm hứng, họ dám lấy bản thân mình để đánh đổi một đời thơ. Nhưng ở Trường Đông ông như nhà khổ hạnh tự đày đoạ mình để trả món nợ của kiếp người. Cuối cùng kẻ khổ hạnh đã ngộ ra nhưng  ngộ ra trong thất vọng

Hỡi khách giang hồ của kiếp sau

Thương nhau nên nhắn gửi cho nhau

Đoạn đường khúc chiết trên dương thế

Chớ bước dài chi để lệ sầu

                           (Hương trầm)

Ông đứng tủi ngồi sầu và đã làm mảnh tình tan vỡ bao hàng lệ châu

Em từ buổi vu quy hết mộng

Lòng đìu hiu còn vọng chờ ai

Gió xuân năm nay lại thở dài

Tình xuân hoa cỏ oán người Thuỵ Long

                                  (Cẩm sơn mộng)

Viết đến đây tôi bâng khuâng chợt nhớ câu nói của người xưa: “Điều chí lý không thể lấy sự tầm thường để lường đo. Lẽ vi tế ẩn khúc thì không thể dùng sự cạn cợt có thể tham hiểu”

Ngoài những bài thơ viết trên dặm đường gió bụi. Những bài thơ tình của ông vẫn mang khí chất lãng mạng của những thi sĩ thế hệ ông như: Mộng ngày thanh, Tình nồng, Tương tư, Lòng ly phụ, Cẩm sơn mộng...

Thơ ông mang nặng một nỗi buồn nhân thế, khóc cho sự ly tán, buồn cho quê hương đất nước trong cảnh loạn ly

Mành tương phấp phới hàng  hoa toả

In nước lưng trời cảnh nhạn trăng

Nhìn cảnh tiêu sơ hàng lệ chảy

Hỡi hồn chiến sĩ, nói nghe chăng

                                     (Thu)

Hoặc những nhà yêu nước bị tù đày trong lao tối của giặc

Nhớ người cố quận trong lao tối

Nhớ kẻ tha hương dạn mặt dày

Thương kẻ bâng khuâng vì thế sự

Quyền sầu dục dã dưới heo may

                                  (Tự thán)

Nhưng những người mà cuộc đời như những cánh chim bạt gió và ba đào luỵ dễ tìm được sự đồng cảm nơi thơ ông.

Mây trắng ngang ngang rải bốn bề

Non Hồng sừng sững lấp hương quê

Hoàng hôn không phủ người trong mộng

Xa lắc đồng xanh vọng lối về

                          (Gửi hương cho gió)

Ô hay tỉnh mộng bồn chồn

Sâm thương cách trở khơi nguồn lệ rơi

Giờ đây cười chẳng muốn cười

Bẻ cành liễu rủ tặng người viễn phương

                                     (Chia tay)

Các cụ già ở quê cho hay Đoàn Văn Bá học nhiều, biết rộng, giỏi văn thơ (Đối với các cụ ở quê ngày ấy tú tài, diplom quả là không nhiều) bạn văn thường lui tới đàm đạo

Chừng ấy Thơ, chừng ấy hiểu biết về một nhà Thơ quả là quá ít. Người viết bài này chỉ muốn lấy cái Tâm để gọi là một chút gì với người đã khuất và nếu nhà Thơ phải nhận nhiều nỗi đau của cuộc đời hơn người khác, điều ấy hẳn không có gì lạ.

Trăng vàng muôn thuở bạn bè đâu

Mà khi rãi lụa trên cành biếc

Cũng khiến văn nhân cũng rãi sầu

“Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ” (Dừng ngại con đường trước mặt không có tri kỷ). Thưa nhà thơ, nếu bài này may mắn tới tay bạn đọc thì người đời còn biết tới ông cũng gọi là một chút tri âm vậy mà!

Những đóng góp của ông cho thơ mới nói riêng và cho làng thơ Việt Nam nói chung, kẻ viết bài này không dám bình luận. Điều chắc chắn một nhà phê bình cẩn thận như Hoài Chân, Hoài Thanh khi nhắc đến một thi sĩ trong tác phẩm của mình, dù nói rất ít về họ, tôi e chừng không bao giờ chỉ là một sự hiểu thoáng qua, mà chắc chắn là ông đã có trong tay những bài thơ của Trường Đông với sự đánh giá, thẩm định của tác giả. Nhưng do khuôn khổ của một tác phẩm và nhiều lý do khác nữa Hoài Chân, Hoài Thanh đã không trích đăng (mà không phải chỉ có ông thôi đâu trong 42 thi sĩ trong Thi nhân Việt Nam rất nhiều người cũng không có bài trích đăng ở đó)

Thơ ông vang động biết bao cảm khái. Hình như ông không chịu bó mình trong không gian nhỏ hẹp, mà là tìm cảm hứng trong trời đất vô tận. Tôi lẩn thẩn nghĩ hay là ông muốn biểu đạt quan niệm Thiên- Địa- Nhân của Mạnh Từ là con người phải hòa cùng trời đất, đi cùng trời đất. Khổ vậy thay!

Một ngày đầu đông khí trời lành lạnh... trong căn nhà nhỏ bạn bè của tôi cùng nhâm nhi chén rượu. Bỗng nhiên tôi liên tưởng và mường tượng trong căn nhà của Tường Đông (không xa Kinh thành Huế là bao) những Danh sĩ, Thi nhân một thời: Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Tôn Nữ Thu Hồng, Xuân Tâm, Bích Khê, Nguyễn Tiến Lãng... ngồi uống rượu ngâm thơ trong bóng thời gian mờ ảo. Mà những câu thơ tiếng cười như còn vang động chưa nguôi dưới lớp bụi rêu mờ của dĩ vãng. Sao chỉ một mình ông rẽ vào con đường gió bụi, để thơ và đời bay chìm vào hư không. Nếu ông cứ ngồi uống rượu ngâm thơ cùng bạn bè thì đâu phải 60 năm qua hai tiếng Tường Đông- Một phần người phải chôn vùi trong quên lãng...

 

Cuối thu năm Bính Tuất (2006)

                                                                             Đ.H.T

 

 

Đoàn Hoàng Thạch
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 152 tháng 05/2007

Mới nhất

Bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật chủ đề “Người lính với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và quê hương Quảng Trị”

12 Giờ trước

Chiều ngày 10/12, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Trị phối hợp Hội Văn học nghệ thuật tỉnh tổ chức bế mạc Trại sáng tác văn học nghệ thuật chủ đề “Người lính với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và quê hương Quảng Trị” năm 2024.

Ban Chính sách với sứ mệnh kết nối thiêng liêng

10/12/2024 lúc 12:24

Ban Chính sách, Phòng Chính Trị, Bộ Chỉ huy Quân sự (CHQS) tỉnh Quảng Trị được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, không chỉ hỗ trợ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ mà còn thực hiện các chế độ chính sách đối với người có công với cách mạng...

Kỷ niệm 73 năm Ngày truyền thống Mỹ thuật Việt Nam và khai mạc Triển lãm hội họa Lê Hữu Quỳnh

08/12/2024 lúc 15:03

TCCVO - Sáng nay 8/12, tại thành phố Đông Hà, Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) tỉnh Quảng Trị phối hợp với Chi hội

Tạp chí Cửa Việt đoạt giải Khuyến khích Giải thưởng Toàn quốc về Thông tin đối ngoại lần thứ X

03/12/2024 lúc 23:05

TCCVO - Tối ngày 3/12/2024, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương và Ban Chỉ đạo Công tác thông tin đối ngoại đã tổ chức Lễ trao Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại lần thứ X.

Hơn 14.000 bức ảnh tham gia Cuộc thi ảnh nghệ thuật cấp Quốc gia "Tự hào một dải biên cương" lần thứ III

25/11/2024 lúc 23:57

TCCVO - Tối ngày 25/11/2024, tại Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội (Đống Đa, Hà Nội) diễn ra Lễ trao giải Cuộc thi ảnh nghệ thuật cấp Quốc gia "Tự hào một dải biên cương" lần thứ III . Cuộc thi do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Công an, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam và các đơn vị liên quan tổ chức.

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

12/12

25° - 27°

Mưa

13/12

24° - 26°

Mưa

14/12

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground