L.T.S: Đột ngột bùng lên cuộc tranh luận khá dữ dội và lý thú về thơ hiện đại từ sau giải thưởng Hội Nhà văn 1993. Thực ra chuyện này đã âm ỉ lâu rồi. Thế cũng hay… vì bản chất thơ bao giờ cùng là chuyện… cũ mà rất mới.
Khi bài viết này của Phạm Xuân Nguyên đến tay CV thì chỉ sau vài giờ, chúng tôi lại nhận được bài trả lời phỏng vấn của Trần Mạnh Hảo, và cùng ngày trên báo Văn nghệ đã in một bài khác của Trần Mạnh Hảo, cãi lại Phạm Xuân Nguyên. Thế là cả hai cực âm dương đã có trên bàn biên tập. Cũng thời điểm này, phóng viên tạp chí Cửa Việt có mặt tại Hà Nội đang phỏng vấn nhà thơ Trần Đăng Khoa, người được coi là châm ngòi cho cuộc bút chiến thú vị này.
CV mong sẽ được cùng báo Văn nghệ làm diễn đàn công khai và công bằng cho cuộc tranh luận bổ ích này.
Xin bắt đầu số này bằng quan điểm về Thơ mới của nhà phê bình nghiên cứu văn học Phạm Xuân Nguyên. Nếu không có gì thay đổi, số 5 (10-94) CV sẽ hân hạnh đăng những ý kiến (chắc chắn là ngược lại) của Trần Đăng Khoa và Trần Mạnh Hảo.
1 |
. Thơ mới khởi phát năm 1932, toàn thắng năm 1936, từ đó nói đến thơ hàm ý hiểu là thơ mới, rộng ra là thơ hiện đại tính đến lúc ấy. Năm 1941, Hoài Thanh (cùng Hoài Chân) soạn tập Thi nhân Việt
Trong bản tổng kết thơ mới của Hoài Thanh có một sự để ngõ cho tương lai. Đó là khi ông dè dặt, thận trọng với những tìm tòi ngôn ngữ của một số nhà thơ táo bạo đẩy tới tận cùng sự cách tân, điều mà nhà phê bình gọi là “công việc phá hoại” với cả hàm ý khen chê. Ông viết: “Họ biến nghĩa tiếng một đi bằng cách sắp đặt tiếng này với tiếng khác một cách bất ngờ. Như thế rất chính đáng. Các nhà thơ chân chính xưa nay đều làm thế để nói cho đúng cái bản sắc của họ. Nhưng bao giờ cũng giữ chừng mực. Các Ô. Bích Khê và Xuân Sanh noi theo gương Mallarmé, Valéry không thèm gìn giữ gì hết. Trong tác phẩm của họ vẫn chừng ấy tiếng ta rất quen, nhưng thảng hoặc ta mới tìm được dấu tích những ý tứ, tình cảm ta vẫn quen gửi vào đó. Họ chạm trỗ rất tỷ mỷ, không phải những rồng, những phượng như ngày trước, mà những gì chẳng ai biết tên. Những gì đó đôi khi cũng đẹp. Đôi khi hình như họ diễn tả được những điều sâu kín, nhưng lời thơ rắc rối quá, dầu sao phần đông chúng ta cũng đành… kính nhi viễn chi”.
Sau thời thơ mới, những đột phá làm thơ mới sẽ đi vào chỗ để ngỏ này.
2. Cuối những năm năm mươi, đầu những năm sáu mươi, ở cả hai miền đều bắt đầu sự tìm kiếm những con đường làm mới thơ Việt. Ở miền Bắc đó là nhóm Trần Dần, Lệ Đạt; ở miền
Khoa có ý “nhại” văn của Hoài Thanh không, tôi không biết. Nhưng mượn sách nói của chính tác giả Thi nhân Việt
3. Quan niệm thơ của Khoa được phơi bày rõ qua đoạn anh lý giải bài thơ viết về những người đàn bà đánh dậm trong tập của Thiều. Anh viết: “Thiều nhìn cái gì cũng thành Tây, ngay cả khi nhìn những người đánh dậm. Người đánh dậm là nghề cổ truyền của dân ta, chỉ ta có, thế mà Thiều viết về cái nghề đặc ta ấy cũng vẫn chẳng ta tý nào. Thiều kể rất tỷ mẩn, chính xác. Nhưng đây là sự chính xác của một người làm công tác khoa học ghi biên bản”. Ở đây có mấy điều cần bàn lại.
Thứ nhất, sự mơ hồ của khái niệm ta và sự vô lý, phi lịch sử của việc phải nhìn cái của ta theo cách ta. (xin lỗi, lại phải trích Hoài Thanh, nhưng khổ nỗi, hơn nửa thế kỷ trước trẻ như Khoa như tôi bây giờ, ông đã giải quyết việc này rất thơ, rất khoa học nên còn có ích cho chúng ta trong cuộc tranh luận về thơ hôm nay). Hoài Thanh đã biện hộ cho Xuân Diệu: “Nhưng thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt được cái tinh thần cố hữu của nòi giồng. Vả chăng tinh thần của một nòi giống có cần gì phải bất di bất dịch. Sao lại bắt ngày mai phải giống hệt hôm qua? Nêu ra một mớ tính tình, tư tưởng, tục lệ, rồi bảo: Người Việt
Thứ hai, và đây mới là điều chính yếu, Trần Đăng Khoa đã chỉ xét câu chữ nhưng không xét tư duy thơ của Nguyễn Quang Thiều, Khoa thấy “cái nhìn ngồ ngộ có chất dân tộc học của một nhà khảo cổ phương Tây” rải rác trong suốt tập thơ của Thiều, nhưng không đi sâu tìm hiểu vì sao trong tập Sự mất ngủ của lửa Thiều không đưa vào một bài lục bát nào như trong tập Ngôi nhà tuổi 17 dù thể thơ dân tộc đó Thiều viết không kém ai. Tất cả là do điệu thơ Thiều đã khác và phải tìm một cách thức thể hiện khác. Tôi gọi tập thơ được giải của Thiều là khúc nhạc Thiều cất lên từ đồng quê, vọng lên từ kiếp người với một giọng điệu rất hiện đại. Giọng điệu tiếng hú. Anh hú lên không phải để cầu cứu, để chia sẻ, mà để giãi bày: giãi bày chính mình, giãi bày những người thân của mình và giãi bày cộng đồng mình; giãi bày trước con người, giãi bày trước đất trời và giãi bày trước hư vô. Người đánh dận hiện ra như thế là một cách giãi bày. Chấp nhận tiếng hú gào này là chấp nhận thơ Thiều. Đó là một thứ rượu rắn, uống vào sẽ say “hát lên bằng nọc độc trong mình”. Thơ đó, cố nhiên, nghịch âm với giọng thơ chung và nghe lần đầu là khó nghe. Nhưng nghe rồi là quen, như rượu uống vào là ngấm, ngấm vào là say, say đến thèm thuồng. Thơ hiện đại bây giờ là thứ rượu rắn còn ít người dám uống, cả kẻ viết lẫn kẻ đọc.
Thứ ba, cái lý của những người bảo thơ Thiều là thơ dịch, lại là dịch xổi, là cái lý không có chân. Đọc thơ Thiều mà cảm giác như đọc thơ dịch là vì tư duy thơ của Thiều đã ít nhiều tiếp cận tư duy thơ hiện đại thế giới, chứ không phải vì Thiều làm thơ ngu ngơ như người Tây nói tiếng Việt. Mà nếu có ngu ngơ như vậy thì cũng là sự học hỏi, tìm tòi trên bước đường thể hiện tư duy thơ mới. Ở đây Nguyễn Quang Thiều đã được bảo đảm bằng Xuân Diệu qua luật sư thơ Hoài Thanh bào chữa: “Ngay lời văn Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn tựa trẻ con học nói hay như người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng
4. Thực chất, ý kiến của Trần Đăng Khoa có thể coi là phát điểm hỏa cho cuộc đấu tranh mới cũ trong thơ Việt
P.X.N
________________________
(1) Hoài Thanh - Hoài Chân: Thi nhân Việt
(2) Trần Đăng Khoa: Tản mạn xung quanh giải thưởng Hội nhà văn, Tạp chí VNQĐ số 11- 1993, tr 100- 104.