Tôi làm quen và thưởng thức tác phẩm của Cao Hạnh bắt đầu bằng kịch bản văn học (Đất cằn), rồi sau đó là các tập truyện ngắn (Bồ câu xám, Huyền thoại tình yêu, Vú cát). Ấn tượng sâu đậm nhất của tôi là tình đời, tình người của anh đối với vùng đất “gió Lào cát trắng” luôn đồng hiện trong từng hình tượng và ngôn ngữ rất đặc trưng Quảng Trị. Chúng vực dậy những ký ức diết da về một thời xa vắng nhưng không xa của chính tác giả. Phải nói là Cao Hạnh nhân tình và nặng sâu ân nghĩa với quê hương – như cách thế để anh hiện hữu mình trong hiện tại và hiểu hết lẽ tồn sinh cùng năm tháng đời người. Chỉ vậy thôi, tác phẩm của Cao Hạnh đã là thông điệp về tình yêu và nỗi nhớ cho những ai luôn hướng về nơi chôn nhau cắt rốn và cõi người độ lượng, tin yêu này.
Những cảm giác và ấn tượng ấy, sau bao năm, vẫn còn nguyên trong tâm thức của tôi. Giờ chúng được sống lại một cách tươi nguyên khi tôi cầm trên tay tập thơ Giấc mơ màu cỏ của Cao Hạnh, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2010. Tập thơ là kết tinh của tình yêu và những kỷ niệm vui buồn được chở che và bảo bọc trong những giấc mơ biếc xanh màu cỏ của chính người thơ. Vì vậy, chúng là chứng chỉ thời gian cụ thể và chân thật nhất của anh qua từng cảm giác và tâm trạng, từng hình ảnh và hình tượng nhân vật.
Tôi muốn từ tiêu đề của tập thơ để xem cỏ như là ẩn số - hay mẫu số cũng thế - để nhìn ra thế giới chung quanh mà Cao Hạnh đã liên hệ, gửi gắm, chia sẻ bằng thơ. Bắt đầu là Mẹ. Bài thơ Nhớ mẹ là những mảnh vỡ ký ức được chắp nối trong tâm tưởng nhớ thương, xa xót. Nỗi nhớ bắt đầu từ cơn mưa rét giá, khiến anh buốt lòng cho mẹ nơi nấm mồ sâu hoang lạnh: “ Đêm nay cả bầu trời đầy nước - Trút hết xuống hồn con” cho kỷ niệm ùa về:
Con lật hồn mình vào tháng năm xa ngái
Nghe lời ru của mẹ vọng về
Ôi lời ru nghe sao da diết
Đã trở thành máu chảy giữa lòng con
Mẹ được liên tưởng đồng hiện trong nhiều cảnh ngộ xúc động. Có một ngày con quạ qua nhà báo tin con gái lấy chồng xa đã lìa cõi thế, khiến cả em và mẹ đã khóc trong nghẹn ngào: “Mẹ đau đớn lăn mình trên vạt cỏ - Dòng sông đưa chị về bến cũ – Nơi ngày xưa chị đi lấy chồng – Tiếng em khóc gào hằn lên mặt sông – Bãi cỏ cào cào tung lên ngàn cánh tím” ( Ngày chị đi lấy chồng).
Bài thơ Giấc mơ màu cỏ là chủ đề gây ấn tượng mạnh trong tập thơ. Nó tạo thành sức năng động bên trong cho mỗi hình tượng. Và cũng từ đó, nhà thơ liên hệ đến quê hương, đến ông bà cha mẹ và hành trình cuộc sống của mình. Bắt đầu là quê hương “ Mảnh đất gầy trong bóng cỏ - Cỏ quê tôi xanh đến nao lòng – Chuyện kể rằng từ thuở hồng hoang – Cỏ quê tôi đã xanh như thế”,rồi đến “Cha mẹ thương nhau từ gánh cỏ qua cầu – Và em thương anh từ bông hoa cỏ biếc” để giờ đây khi nhớ về quá vãng “Giấc mơ nào cũng xót quê hương”:
Mẹ bọc tôi trong vạt áo của Người
Mẹ dấu tôi vào trong cỏ…
Cỏ ơi…
Cỏ chở che tôi bằng màu xanh của cỏ
Cỏ sưởi hồn tôi bằng hoa lá nồng nàn
Tuổi thơ tôi lấm láp giữa đồng làng
Cùng lũ bạn chơi trò chơi trận giả
Giấc mơ tôi tím cánh cào cào
Lớn lên, tôi ở tuổi biết yêu
Em đến với tôi trong đêm trăng cỏ ướt…
Thơ Cao Hạnh trầm tư nhiều về người cha nơi chín suối: “Con neo hồn mình trong im lặng – Lặn vào câu thơ tìm ẩn số cuộc đời – Ba mươi năm cha ơi”. Tưởng như Người vẫn còn đây qua từng hành vi, nhân cách:
Cha tôi người sinh ra lỗi thời
Phải làm nghề cày ruộng
Ông đọc sách Thánh hiền
Để dạy bảo cháu con nên người
Lấy chữ NHÂN làm gốc cho đời
Lấy chữ NHẪN xây nên cơ nghiệp
Một tấn khôn ngoan không bằng một gam trung thực
Khiêm tốn thật thà không được gian tham
(Chuyện nhà)
Cao Hạnh có những câu thơ viết về Cha và Mẹ thật hay và chân thật đến nhức nhối, có nhiều liên tưởng bất ngờ dù không xa lạ. Ở đây là cách nói, là cách phát hiện cái bình thường trong chính cái bình thường: Hàng ngày mặt trời bay lên theo nhát cuốc của cha tôi
Những buổi sớm kéo bình minh vào đất
Mẹ đi cấy khảm buồn vui vào nước
Bao xuân xanh trút xuống để nuôi đồng
(Chuyện nhà)
Hay:
Con cá câu lên cho mẹ
Chần chừ lại thả xuống sông
Để nỗi buồn mắc mãi ở lưỡi câu
Mà mẹ ơi suốt đời con không sao gỡ được
Và cứ thế, mỗi khi nghĩ đến chuyện nhà, anh lại nghĩ chuyện rộng dài về Tổ quốc, Quê hương. Tình yêu ấy sẽ có sức lan tỏa và sâu nặng vì nó được suy tư và liên hệ từ hiện tại và trầm tích văn hóa, lịch sử với từng cảnh đời và cảnh người cụ thể. Nghĩ về mười họ tộc làng mình từ khai canh, lập nghiệp hai trăm năm đến nay, tác giả nghĩ đến sự cố kết bền vững nhất của những giá trị tinh thần và vật chất để làm nên sự sống:
Mười họ tộc – Mười hòn máu đỏ
Cùng lăn trên mảnh đất khô cằn
Hòa vào nhau như suối hợp thành sông
Máu trộn mồ hôi nở bừng lên hoa trái
Con cháu sinh ra, tài trai, sắc gái
Những thế hệ kế tiếp nhau xây đắp nên làng
(Làng tôi)
Nghĩ về dòng Hiếu Giang quê nhà, anh lại nghĩ về những gì bình dị nhất có liên hệ thân thiết với chính đời sông và chính con người: “Tôi cầm trên tay những mảnh sành vỡ vụn – Lòng cồn cào thương nhớ một đời sông” mà liên hệ đến những câu hát “đáy sông còn ngậm”, để nói lên lòng gắn bó nặng sâu với cơn khát tuổi thơ mình cùng dòng sông tình sử:
Dẫu uống cạn nguồn vẫn không thôi cơn khát
Ôi dòng sông trong như nước mắt
Vẽ một nét huyền qua sỏi đá đời tôi
(Dòng sông quê tôi)
Bài thơ Lời ru nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn cũng nằm trong mạch thơ thế sự giàu ân tình, triết lý của Cao Hạnh, dù chủ đề không mới. Ở đây, có sự độc thoại của chính chủ thể trữ tình nhập vai với những hồn thiêng đã khuất : “Ru chị ru anh – Suốt đời trận mạc – Xin đừng thao thức – Chi hoài người ơi”. Chỉ còn đây nỗi tự hào đau nhói của những người đang sống để biến thành “Lời ru mải miết – Bay vào thiên thu”, “Những lời mẹ hát – Chảy theo mạch nguồn” . Và phía trước là tình yêu và màu xanh phục sinh vĩnh cửu:
Chiến tranh qua rồi
Đường xanh phía trước
Cháu con xin đặt
Dấu chân Trường Sơn
Vào miền mơ ước
@
Phần hai của bài viết, tôi cũng lại đi từ những giấc mơ màu cỏ của Cao Hạnh để liên hệ và nghĩ suy về những mảnh vỡ ký ức tình yêu, ký ức tuổi thơ và ký ức tâm trạng mà tác giả đã thao thức, trầm tư trên từng con chữ. Từ suy ngẫm của Cao Hạnh: “Cuộc đời lắm nỗi đa mang – Ta như chiếc lá nửa vàng nửa xanh – Nửa vàng thì cứ vàng nhanh – Chút xanh còn lại vẫn xanh hết mình” (Ngẫm). Đó chính là quy luật sinh tồn của vạn vật trong vũ trụ mà chỉ có con người – chủ thể có ý thức mới nhận ra và nhân đó ban tặng cho thiên nhiên, như cách thế để hiện hữu mình trong hiện sinh, trong từng hồng cầu tươi đỏ. Cả chú ốc sên vô tri cũng thế:
Ô kìa! Chú ốc sên
chẳng cần vội vã
để cho thời gian mọc rêu trên chiếc vỏ
vác cả không gian rừng
bình thản
vặn mình
đi…
(Rừng)
Cứ thế, theo cách của Bùi Giáng: “Bây giờ xin đối diện tôi – Còn hai con mắt khóc người một con” và Hoàng Phủ Ngọc Tường: “ Vẽ tôi một nửa mặt người – Nửa kia mê muội của thời hoang sơ”, Cao Hạnh lấy mình và thiên nhiên làm đối tượng để vẽ chân dung bằng thơ nhằm nói lên cái mỏng manh, xa vời và ảo ảnh của con người và hiện tượng, sự vật trước cái vĩnh hằng của thời gian và không gian:
Vẽ trăng một nét gương soi
Có hình chú cuội ngôì cười trên mây
Vẽ non nghe tiếng sương bay
Cánh chim hồng nhạn trong mây mơ màng
Vẽ em một đóa hoa hồng
Gửi vào giữa chốn hư không cho đời
Bây giờ tôi vẽ chính tôi
Rượu say, lạc bút
thôi rồi…
mặt ai?...
( Vẽ )
Có lúc, tác giả phân thân và tự hỏi “Ta là ai” để rồi cứ mỗi lần tự vấn “Nỗi dày vò xoáy riết tâm tư” và cuối cùng là trạng thái vô thức để an ủi tấm hình hài có có không không:
Một nửa tôi bay ở phía chân trời
Một nửa tôi neo vào trong cát bụi
Hai nửa cuộc đời nhập lại
Để thành tôi trong một kiếp CON NGƯỜI
(Tự vấn)
Mảng thơ về đời tư của Cao Hạnh thường bâng khuâng, đượm chút buồn hoài niệm, có liên hệ với hoàn cảnh quê hương và những người thân cụ thể. Những bài thơ Ngày chị đi lấy chồng,Nhớ mẹ,Chợ hôm, Giấc mơ màu cỏ, Người ơi, Làng, Chuyện nhà, Người đàn bà tìm tuổi xuân trên cát…hội tụ ở cái nhìn nghệ thuật như thế. Nhà thơ quan sát cảnh chợ Hôm đông vui mà lại ngậm ngùi cho chính riêng mình và cho tha nhân trong liên tưởng gần và liên tưởng xa:
- Người ngồi bán cái đợi chờ
Kẻ đi mua cái ngẩn ngơ mang về
-Tôi đi mua nhánh hoa tươi
Lại mang về cả tiếng cười của em
Vậy là dù buồn hay vui thì người thơ cũng đã được an ủi trong nhận thức, trong sự phục sinh những giá trị mới trên chính những mất mát, lo toan sau tiếng con Cuốc kêu khắc khoải: “Tiếng Cuốc rụng xuống bên trời – Sinh nở một ban mai”. Còn nhà thơ ngồi thiền thì âm thầm nhưng hệ quả lại có giá trị nhân bản hơn, dù không phải có lúc cũng nhuốm màu hư vô : “ Nhà thơ ngồi thiền sau bóng chữ - Cuối câu thơ hiện bóng CON NGƯỜI”, cho nên sau giọt nước mắt thi nhân là những mầm xanh hy vọng:
Giọt nước mắt thi nhân
Khóc cho bao số phận
Bao kiếp bị đọa đày
Giọt nước mắt thi nhân
Rơi vào cội nguồn dân tộc
Nảy mầm tương lai
Gieo vào cộng đồng nhân loại
Hạt thương yêu mọc giữa trái tim người
(Nước mắt thi nhân)
Thơ tình yêu của Cao Hạnh thì khác, bao giờ cũng trái ngang và dang dở, dù có lúc anh có hơi cường điệu:
Lá trầu khô gói nỗi buồn
Chỉ mời được ánh trăng suông trên đầu
Ta còn một trái tim đau
Yêu em cho đến nát nhàu người ơi
(Người ơi)
Hay:
Có một mùa thu đi qua đời tôi
Để lại vết bầm trong gối
Để lại tiếng trăng òa vỡ
Nỗi buồn tím cả hư vô
(Có một mùa thu)
Nhưng rồi cuối cùng, con người vẫn phải tồn tại – tồn tại theo nghĩa đích thực nhất của sự sống như “ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên” (Chế Lan Viên): “ Và thơ tôi – những câu thơ máu thịt – Cũng chỉ là ngọn cỏ hóa thân thôi – Tôi sinh ra trên đời – Tôi người con xứ cỏ - Giấc mơ nào cũng xót quê hương”. Vậy là, một nhận thức tích cực khác lại bắt đầu:
Có những lúc nỗi đau buồn nhân thế
Nở huy hoàng thành hạnh phúc em ơi
(Khi em khóc)
Và nhà thơ không có chi khác ngoài tự mình vực dậy những ước mơ non tơ màu cỏ ấy để tiếp tục yêu thương và khát vọng:
Ta như cái bóng cây thôi
Con chim đến đậu xong rồi lại bay
Ta như một nét sông gầy
Cho ai đếm sóng những ngày tuổi thơ
Ta như ngọn núi đợi chờ
Cơn mưa chưa đến phạc phờ hư hao
Ta như ngọn gió trên cao
Thôi đành thổi tắt vì sao giữa trời
Ta như con sóng ngoài khơi
Bạc đầu cũng chỉ vì đời biển xanh
(Ta như)
Khép lại tập thơ, vẫn tiếc nuối về một vài hình ảnh và câu chữ chưa thật kết tinh lắm đặt xen lẫn trong những khổ thơ hay, câu thơ hay. Có lẽ. Cao Hạnh muốn giữ nguyên những rung cảm bộn bề ấy khi để ngôn ngữ trần trụi của văn xuôi đi vào thơ một cách thoải mái chăng? Dĩ nhiên là thơ cũng cần văn xuôi nhưng phải là chất văn xuôi nghệ thuật chứ không phải là khẩu ngữ. Hoặc văn xuôi trong những bài thơ tự do, thơ văn xuôi chứ không thể là văn xuôi trong những bài thơ vần điệu điêu luyện được, làm giảm nhạc thơ và nhạc lòng đang run rẩy. Nói như vậy, không biết có chủ quan không? Xin Cao Hạnh cùng suy nghĩ.
@
Trong lời khai từ đầu tập thơ, Cao Hạnh có nói: “Thơ hay tự nó sống. Thơ dở tự nó chết”. Và trong Nhà văn Việt