“Cửa Việt, hò ơi hò, Cửa Việt của ta đó”…
Câu hò ở mãi trong tâm trí đến tận bây giờ, đến mức mỗi khi nghe hai tiếng “Cửa Việt” dù ở bất kỳ đâu, từ đài phát thanh, trong giọng người, trên sách báo… tôi lại nhớ câu hò mênh mông khoáng đạt ấy.
Chỉ nhớ tên bài hát: Bài thơ Cửa Việt.
Lâu rồi không nghe đài phát thanh. Tôi lục tìm trên các trang mạng âm nhạc, chẳng hạn trang Bài ca đi cùng năm tháng, nơi lưu giữ rất nhiều bài hát một thời của đài Tiếng nói Việt Nam.
Không sao tìm thấy. Có lẽ là không thể tìm lại được nữa.
*
Một ngày, chợt nhớ, có người bạn ở tạp chí Cửa Việt. Bèn liên lạc qua mạng, hỏi bạn đã bao giờ nghe ca khúc Bài thơ Cửa Việt hay chưa? Phải hỏi là đã bao giờ, bởi vì biết chắc tuổi của bạn còn ít hơn tuổi của bài ca khá nhiều. Hỏi, mà chỉ nhớ rằng bài hát ấy phát nhiều lần trên đài Tiếng nói Việt Nam khoảng thời gian Quảng Trị mới giải phóng. Chỉ nhớ một dàn hợp xướng khá hoành tráng, nhớ giọng lĩnh xướng của ngôi sao Ngọc Tân, không thể nào quên.
Bạn ấy cũng phải đi hỏi bạn bè làm nhạc ở Quảng Trị. Lần lượt mấy người. Rồi tìm ra: tác giả bài hát ấy là nhạc sĩ Lê Anh. Ông đang ở quê Thừa Thiên Huế, còn bản nhạc và bản thu thì đang được người con rể của ông lưu giữ tại Đông Hà, Quảng Trị.
Thế là duyên may. Một thời gian sau, tôi đã nhận được cả bản thu và bản nhạc Bài thơ Cửa Việt.
“Cửa Việt, hò ơi hò, Cửa Việt của ta đó”…
Gặp lại bài ca, gặp lại trọn vẹn, như một người quen cũ. Một cuộc tái ngộ sau gần năm mươi năm. Một bản hợp xướng dàn dựng công phu và bề thế. Dàn bè nam dàn bè nữ đối xứng như đối đáp nam nữ trong nhạc hội dân ca.
Dàn nam, ngư dân ra khơi hò khoan buông lưới: Nào bạn nghề (này) / Đều tay nghề (này) / Trời của ta biển của ta / Ra khơi vào lộng ngày ngày ta đi.
Dàn nữ, bến cảng và làng quê náo nức rộn ràng: Mặt trời đã lên / Vui khi tàu cập bến / Hàng về nhiều chất đầy bến cảng / Tình nghĩa anh em bè bạn xa gần.
Các dàn bè đối ứng, đan dệt, quấn quyện. Khung cảnh mở ra phơi phới rộng dài trời biển. Không khí khẩn trương dồn dập tưng bừng.
Và rồi có chút lắng lại, thu rút về trong một tâm trạng. Đó là lúc tâm hồn tác giả lên tiếng. Giọng lĩnh xướng Ngọc Tân là khúc tự sự trữ tình của một con người đang quan sát mà cũng đang nhập hồn vào bối cảnh hòa bình vừa trở lại:
Em ơi, ta yêu một ngày biển đẹp như hôm nay
Màu xanh ấy như sắc cờ trong nắng
Bãi bờ ấy như tình em trong trắng
Vầng dương lên sáng tỏa biển trời.
Bài ca mở đầu và kết thúc bằng một câu hò ấy:
“Cửa Việt, hò ơi hò, Cửa Việt của ta đó”…
Ở âm cuối, nhạc sĩ đã khéo vuốt một nốt luyến đô si và rê quãng trên, thành ra mềm mại như hào sảng và tự hào mà không gây ấn tượng tự đắc tự thị. Chính vì thế, câu hát đã ở lại trong tâm trí người nghe, mãi nhiều năm sau.
*
Hồi nghe bài hát ấy, tôi còn nhỏ, chưa đến Quảng Trị, chưa biết Cửa Việt, chỉ nghe những địa danh qua các ca khúc thời chiến, như “Ai đã đến miền quê em Quảng Trị Thừa Thiên / Qua đường 9 tình Gio Linh lắng nghe giọng hò…” (Huy Thục).
Nhưng khi đó chưa đến mà hai tiếng Cửa Việt trong bài ca đã vang lên thật gợi thật đẹp. Thêm cái không khí náo nức mong chờ đất nước thống nhất. Bây giờ nghe lại, thấy có thể giải mã được bối cảnh lịch sử của bài ca: “Màu xanh ấy như sắc cờ trong nắng”.
Sắc cờ thì phải là cờ đỏ sao vàng, sao lại là màu xanh? Thì đấy là không khí mới giải phóng, cờ bay khắp nơi là cờ nửa đỏ nửa xanh của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. “Lá cờ nửa đỏ nửa xanh / Màu đỏ của đất màu xanh của trời” (Tố Hữu).
Còn nữa, đang giữa biển trời Cửa Việt, sao lại là “miền Nam”?:
Chào anh chiến sĩ nhân dân
Chào chị công nhân bến cảng
Ngày đêm lao động xây dựng miền Nam yêu thương.
Đất nước chia cắt hai mươi mốt năm trời (1954 - 1975), sông Bến Hải là giới tuyến hai mươi mốt năm trời. Ranh giới tạm thời chia ra hai nửa: Bắc và Nam. Quảng Trị ở bờ Nam, thuộc vào nửa nước phía Nam. “Xây dựng miền Nam” là theo nghĩa đó. Lời ca cho biết bối cảnh Quảng Trị mới giải phóng, các khái niệm vẫn chưa thay đổi, mà còn chờ cho đến ngày cả nước thống nhất.
Bản thu thanh của đài Tiếng nói Việt Nam đã ở mức khoáng đạt và bề thế, nhưng vẫn mong sẽ có lúc Bài thơ Cửa Việt được dàn dựng lại cho một dàn đại hợp xướng thật sự hoành tráng. Cần một giọng lĩnh xướng nam cao vừa trong vừa đẹp theo kiểu bel canto/tenor như Ngọc Tân, như vậy mới có thể chuyển tải đầy đủ chất tự sự trong sáng và hào sảng của bài ca.
Trong khi chờ đợi, bản thu xưa nếu được vang lên trên vùng đất quê hương cho các thế hệ hôm nay biết đến thì vẫn còn nguyên rung động và nhiều ý nghĩa.
H.A.T