Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 12/11/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Sắc phong bảo vật linh thiêng của làng

Sắc phong là văn bản của nhà vua ban cho các vị thần, người thật có công với nước, với dân. Người xưa nói “Sắc tại như thần tại”, tức là sắc ở đâu là thần ở đó. Hầu như các làng xã Việt Nam đều được các triều đại phong kiến ban sắc phong, mặc dù đã bị mất số lượng đáng kể nhưng còn lại đến nay khá lớn và thường được bảo tồn trong các kiến trúc tín ngưỡng của làng xã.

Dân làng Trung Yên (xã Triệu Độ, huyện Triệu Phong)  xem sắc phong như bảo vật linh thiêng của cả cộng đồng,  được gìn giữ bảo vệ, lưu truyền qua nhiều thế hệ. - Ảnh: N.T

Dân làng Trung Yên (xã Triệu Độ, huyện Triệu Phong) xem sắc phong như bảo vật linh thiêng của cả cộng đồng, được gìn giữ bảo vệ, lưu truyền qua nhiều thế hệ. - Ảnh: N.T

Điền dã ở một số làng xã vùng Quảng Trị, chúng tôi may mắn được tiếp cận với các đạo sắc phong và nhận thấy đây là cổ vật quý, vừa chứa đựng giá trị lịch sử và văn hóa, vừa chứa đựng giá trị tâm linh. Các vị thần được ban sắc phong đã trở thành các vị thần ở làng và được nhân dân tôn kính, thờ phụng.

“Căn cước” của làng

Vùng đất Quảng Trị trải qua các cuộc chiến tranh ác liệt và chịu sự tác động của thiên nhiên khắc nghiệt, đến nay sắc phong còn lại không nhiều. Đây là điều rất đáng tiếc. Phần lớn các đạo sắc được lập dưới thời các vua Nguyễn. Có 1 đạo sắc được xác định có từ thời Lê (năm 1578) và 2 đạo sắc có từ thời Tây Sơn (năm 1793 và 1795). Thực tế, trong nhiều làng xã, dòng họ, gia đình vẫn còn đang cất giữ sắc phong nhưng chưa được điều tra nên số lượng có thể còn nhiều hơn.

Sắc phong ở Quảng Trị có hai loại chính. Loại thứ nhất là sắc phong nhân vật do nhà vua các triều đại phong kiến dùng để phong chức tước cho các quan lại, quý tộc, người có công. Loại này không còn nhiều và thường do các dòng họ, gia đình lưu giữ nên không phổ biến ra công chúng. Loại thứ hai là sắc phong thần cho các vị thần (có thể là nhiên thần, thiên thần hoặc nhân thần) là tài sản chung của cả cộng đồng làng xã nên thường được cất giữ tại các đình, chùa, đền, miếu. Loại sắc phong này còn được bảo tồn khá nhiều ở các làng, xã trong tỉnh.

Các sắc phong thần thường được viết trên một mặt của tờ giấy dó hình chữ nhật màu vàng nhạt, kích thước dài 130 cm, rộng 50 cm. Mặt trước được trang trí hoa văn long ẩn vân thếp nhũ bạc, điểm xuyết xung quanh là hình những chấm tròn biểu trưng cho những vì tinh tú. Bốn góc và chính giữa mép trên trang trí hoa văn chữ Thọ lồng trong khung hình chữ nhật, hoa văn hình chữ S và những áng mây. Bên phải là toàn văn bản sắc phong viết bằng chữ Hán theo lối chữ chân rất rõ ràng, dễ đọc. Bên trái là dòng lạc khoản ghi niên đại và dấu triện đỏ Sắc mệnh chi bảo, Phong tặng chi bảo.

Nội dung sắc phong chỉ có khoảng hơn 100 chữ ghi về địa chỉ nơi được ban sắc phong, tên gọi của thần, lý do thần được ban sắc hoặc nâng cấp phẩm trật, trách nhiệm của thần đối với dân sở tại, trách nhiệm của dân đối với thần, sau đó là thời gian phong sắc, niên hiệu và đóng quốc ấn của triều đình. Cũng trong đạo sắc phong, nhà vua giao cho các vị thần che chở bảo hộ con dân của ngài và cho phép các địa phương chính thức tôn thờ những vị thần bản địa của mình.

Đối với mỗi làng xã, sắc phong thần là nguồn tư liệu quý và linh thiêng vì gắn liền với lịch sử và đời sống tâm linh của người dân. Những vị thần và những người được vua phong thần thông qua sắc phong đã được người dân tín ngưỡng, thờ phụng. Đồng thời, niên đại được ghi trên sắc phong là niên đại chính xác, đáng tin cậy cho phép khẳng định rõ ràng lịch sử lập làng, lịch sử hình thành dân cư, dòng họ, lịch sử khai khẩn. Chính vì thế, sắc phong cũng có ý nghĩa như một văn bia hay “thẻ căn cước” của làng. Sắc phong làng nào thì tốt nhất ở làng ấy lưu giữ vì đấy mới là chủ nhân của sắc phong thực sự. Người khác giữ thì không thể tốt bằng. Cầm sắc phong của làng khác cũng như cầm giấy tờ của người khác. Treo sang đình làng khác nó cũng không có giá trị.

Đạo sắc phong cổ gần 200 năm tuổi tại đình làng Trung Yên (xã Triệu Độ, huyện Triệu Phong).  Bề mặt của sắc phong vẫn còn rõ chữ và dấu ấn triện của nhà vua. - Ảnh: N.T

Đạo sắc phong cổ gần 200 năm tuổi tại đình làng Trung Yên (xã Triệu Độ, huyện Triệu Phong). Bề mặt của sắc phong vẫn còn rõ chữ và dấu ấn triện của nhà vua. - Ảnh: N.T

Bảo vật linh thiêng của làng

Đối với các làng xã thì đạo sắc phong thể hiện những giá trị về văn hóa và tâm linh. Vì vậy, nhiều nơi, khi bị mất đi sắc phong thì họ cảm thấy như mất đi phần hồn của làng và đời sống tâm linh bị ảnh hưởng. Chính vì thế, việc gìn giữ sắc phong như một trách nhiệm để giữ lại sự linh thiêng cho làng.

Tờ sắc phong có giá trị của hiện vật mấy trăm năm. Nó không chỉ là hiện vật giàu tính khoa học, lịch sử, văn hóa và mỹ thuật, mà còn là hiện vật linh thiêng trong đời sống tâm linh của người dân. Đặc biệt đối với một cộng đồng dân cư, sắc phong là tài liệu quý giá để tìm hiểu, xác tín về nguồn cội. Chính vì sắc phong quý và thiêng liêng như vậy nên địa phương nào còn lưu giữ được là rất đáng trân trọng và ý nghĩa đối với các thế hệ.

Làng Hà Lộc (xã Hải Sơn, huyện Hải Lăng) nằm ở bờ bắc sông Ô Lâu là một ngôi làng cổ phong cảnh hữu tình. Cùng với lịch sử lập làng lâu đời cách đây gần 500 năm trước, người làng còn tự hào về ngôi đình linh thiêng đang cất giữ 28 sắc phong do các vua Nguyễn ban tặng và nhiều tập địa bạ, khế ước. Coi sắc phong là bảo vật, dân làng quyết tâm giữ gìn bảo vệ đến cùng với tinh thần “làng còn thì sắc phong còn”.

Trong chiến tranh, đình làng Hà Lộc đã bị đốt phá nhiều lần, thế nhưng giặc không thể đốt, cướp các sắc phong là nhờ người làng di tản kịp thời, đến khi bình yên mới đem về làng. Trước đây các sắc phong được cất giữ ở nhiều nơi, có khi được mang về cất tại nhà của những người trông nom đình làng. Mùa lũ lụt thì sắc phong được thỉnh đến vị trí cao nhất trong làng để tránh nước. Hiện tại sắc phong được bảo quản trong ngôi đình làng để thờ phụng và hương khói tôn nghiêm. Dân làng cũng cẩn thận bọc nhựa số sắc phong để phòng mối mọt rồi cho tất cả vào một chiếc rương, khóa cẩn mật. Sợ mất trộm khi lưu giữ tại đình nên làng đã bầu ra một thủ sắc (người trông nom sắc phong). Người được bầu vào vị trí này phải là người có uy tín với cộng đồng và đạo đức trong sáng.

Làng Trung Yên, xã Triệu Độ, huyện Triệu Phong còn lưu giữ được gần như nguyên vẹn 19 đạo sắc phong. Trong đó sắc phong cổ nhất được ban năm 1826 thời vua Minh Mạng đời thứ 7, đến nay đã ngót 2 thế kỷ nét vàng son vẫn tươi nguyên trên nền giấy cũ. Các sắc phong được ép nhựa, cuộn tròn đặt trong tráp gỗ và treo lên mái đình đề phòng lũ lụt, mất trộm. Các cụ cao niên trong làng phân công một người giữ chìa khóa tráp đựng sắc phong cẩn thận, chỉ khi nào có việc hệ trọng mới được thỉnh xuống.

Hằng năm vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, làng Trung Yên tổ chức lễ giỗ chung các vị thần có công của làng tại ngôi đình làng. Người dân tập trung đông đủ để cử hành lễ giỗ cầu mong các vị thần linh phò hộ độ trì cho mưa thuận gió hòa, xóm làng an yên, con cháu học hành đỗ đạt. Cùng với lễ giỗ, các cụ cao niên sẽ thực hiện nghi lễ “khai sắc”, trao truyền lại cho con cháu tính thiêng của sắc phong. Nếu con cháu tin vào tính thiêng liêng của sắc phong, biết trân trọng thì mỗi người sẽ tự giác giữ gìn, không ai có thể lấy đi và đánh đổi được. Chính sự trao truyền ấy là cách giữ gìn sắc phong hiệu quả nhất mà không một hòm khóa bảo vệ nào chắc bền được như vậy.

Câu chuyện bảo tồn sắc phong của những ngôi làng cho chúng ta một niềm tin, di sản văn hóa tốt đẹp của những ngôi làng đang được gìn giữ và tôn vinh. Bởi khi giữ gìn được sắc phong, làng quê như được giữ lại linh hồn, để các vị thần che chở, bao bọc con dân cho nhiều thế hệ được tiếp nối, phát triển bền vững.

NGUYÊN THẢO
Chuyên đề 8: Tôn giáo & tín ngưỡng trong đời sống

Mới nhất

Bích La Đông: đất và người

1 Phút trước

Bích La Đông là một trong những làng nổi tiếng của Quảng Trị, có bề dày văn hóa và lịch sử, là vùng đất địa linh nhân kiệt vì đã sản sinh ra nhiều nhân tài cho quê hương đất nước. Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, làng Bích La có nguồn gốc sơ khai tên là Hoa La, thuộc huyện Hải Lăng (gồm 49 xã trong đó có xã Hoa La), phủ Triệu Phong(1).

Tạp chí Cửa Việt khảo sát nhu cầu bạn đọc

10/11/2024 lúc 05:47

Để đáp ứng nhu cầu bạn đọc, tiến tới cải tiến, đổi mới về hình thức và nội dung tờ tạp chí (bản in và trang thông tin điện tử tổng hợp), Ban Biên tập Tạp chí Cửa Việt xin ý kiến của bạn đọc về một số vấn đề để xây dựng ấn phẩm chất lượng, phục vụ bạn đọc tốt hơn.

Kết nối văn hóa, củng cố tình hữu nghị qua giao ban kết nghĩa cụm dân cư biên giới Việt Nam - Lào

09/11/2024 lúc 10:34

TCCVO - Chiều ngày 09/11, tại Nhà sinh hoạt cộng đồng khóm Ka Tăng và khóm Ka Túp (thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị), hai cặp bản là khóm Ka Tăng (Lao Bảo, Hướng Hóa, Quảng Trị) và Bản Đen Sa Vẵn (huyện Sê Pôn, tỉnh Savannakhet, Lào); khóm Ka Túp (Lao Bảo, Hướng Hóa, Quảng Trị) và Bản Ka Túp 2 (huyện Sê Pôn, Savannakhet, Lào) đã tổ chức buổi giao ban kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới quý IV năm 2024. Đây là dịp tái khẳng định sự đoàn kết, bền chặt của các cộng đồng sinh sống nơi đường biên, trong tinh thần hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau.

Huyện Cam Lộ tiếp nhận các kỷ vật của vua Hàm Nghi và ra mắt sách “Hàm Nghi - Hoàng đế lưu vong, nghệ sĩ ở Alger”

07/11/2024 lúc 09:14

TCCVO - Ngày 7/11/2024, tại Khu di tích quốc gia Thành Tân Sở (thôn Mai Đàn, xã Cam Chính, huyện Cam Lộ, tỉnh

07/11/2024 lúc 03:04

Tạp chí Cửa Việt tập huấn về chuyển đổi số, kỹ năng an toàn thông tin

06/11/2024 lúc 09:28

TCCVO - Ngày 6/10/2024, Tạp chí Cửa Việt phối hợp với Hội Văn học Nghệ thuật, Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông tỉnh Quảng Trị tổ chức tập huấn nâng cao trình độ và kỹ năng chuyển đổi số, nâng cao ý thức bảo mật hệ thống thông tin nội bộ và sử dụng các nền tảng mạng xã hội cho đội ngũ cán bộ, viên chức Hội VHNT và Tạp chí Cửa Việt.

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

13/11

25° - 27°

Mưa

14/11

24° - 26°

Mưa

15/11

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground