R |
a quân, vào những ngày giáp tết, Hanh vội vã lên tàu, xe về nhà mong kịp tết. Trên chuyến tàu xuyên Việt, không khí mùa xuân chứa chan khắp nơi. Anh đọc được điều ấy trong đáy mắt bừng rạng niềm vui của mọi người anh gặp trên đường.
Tàu qua dải đất miền Trung từng rát bỏng nắng gió, từng sướt mướt đông mùa, đã ấm nắng. Xuân năm nay về sớm. Đất đai bao ngày khô khát, sũng ướt, nay ưỡn tấm ngực khoẻ khoắn bao la, dự báo cho người, mùa tới xum xuê cây trái.
Xuống tàu, sang sông, Hạnh cuộc bộ rẻ vào con đường đất sỏi hồng. Con đường vắt qua đồi sim dại. Nơi đây, thuở thơ ấu anh từng lạc giữa rừng hoa sim tím, từng cắn những trái sim thẩm tím, còn lóng lánh sương đêm… Và, những chiều hoàng hôn lịm tắt, anh tức tưởi bên nấm mộ cha, đong đếm nỗi bơ vơ hiu quạnh đời mình, thấm thía ngày tháng chơ vơ của trẻ không còn có cha trên đời. Như mỗi lần Hanh ngang qua đồi sim, anh đều thủ sẵn nén nhang hương khói viếng cha và thầm thì, thủ thỉ với cha những thành công anh làm được. Ý nghĩ báo cáo với cha là anh đã hoàn thành nghĩa vụ trở về làm bước chân anh tự động đi vào rừng sim. Bất ngờ Hạnh sững nhìn: thấp thoáng trong màu xanh ngàn lá, một cánh áo dài lạ lẫm giữa hoang vắng, một cô gái lạ, đang đứng trầm ngâm bên mộ cha anh, phía đồi bên kia? Cô là ai? Làm gì trước mộ cha và dì anh thế? Hanh chít lại dây ba lô ở bụng, đi tưng tưng xuống triền dốc. Tiếng chân anh trượt trên sỏi lạo xạo làm cô gái quay người lại. cô tròn mắt ngạc nhiên, anh ánh chút gì sợ hãi. Hanh chậm chân, gắng tạo vẻ tự nhiên. Dù bộ quân phục anh mặc có phần xộc xệch, bụi bẩn, nhưng tác phong đàng hoàng cố hữu của anh giúp cô bớt nghi ngại, đôi môi cô đón Hanh nụ cười e ấp. Hanh hỏi:
- Cô thắp hương cho mấy mộ này? Cô có bà con hở?
Cô gái chăm chăm nhìn Hanh:
- Thắp hương có gì ông phải băn khoăn. Tôi dâng hương mời cha tôi và dì tôi về ăn tết. Ông không nhớ chiều nay là chiều ba mươi rồi sao? Vùng đất này của ba mẹ tôi mà.
Hanh trân trân nhìn cô gái, anh không tin! Không lý cô ta sinh ra và lớn lên ở đây mà bàn tay trắng nhỏ thế kia, dáng người quý phái, sang giàu, rất cách biệt rõ ràng với các cô gái chắc khoẻ có nước da bồ quân, suốt ngày lam lũ rẫy bái quê anh? Hơn nữa, Hanh rành rọt từng ngọn đồi, lùm bụi, thuộc từng khuôn mặt, tính nết của bà con trong vùng. Hanh nói:
- Người ở đây chẳng khi nào đi vào đồi nghĩa trang ngun ngút cỏ mà mặc áo dài trắng.
- Không mà... Tôi muốn tỏ lòng thành kính với ba tôi – cô chỉ hai cái mộ cô đã dâng hương nghi ngút khói, tiếp: Đây mộ ba tôi và dì tôi. Tôi nói thật mà, thật à.
- Ha. Cô không đùa sao?
Mắt cô gái sáng lên. Thấy thái độ quá ngỡ ngàng của Hanh, cô bỗng mừng rỡ:
- Hanh, đúng Hanh rồi! Mẹ dặn chừng … chừng ba mươi tết Hanh về. Tuần trước nhận điện, mẹ vui chảy nước mắt. Hanh là em Liên. Về nhà mẹ sẽ kể Hanh nghe.
Hanh đứng sững như trời trồng giữa chiều hoang dã. Cô gái lạ đã gọi đúng tên anh, nhận mộ cha, dì anh là Ba, dì cô. Chưa khi nào mẹ anh nói anh có bà chị nào đâu. Hanh ngơ ngác:
- Nghe cô .. à … chị nói lần đầu. Sao mẹ không nói cho tôi biết cả … chị … Liên cũng về dưới…
- Ủa, Hanh dâng hương rồi cùng về. Mẹ mấy bữa rày trông Hanh lắm. Tình ruột thịt tràn về, dù ngỡ ngàng Hanh vẫn đỡ Liên bước qua mấy lườn đất do nước sói mòn, dễ ngã. Đôi dày cao gót trắng của Liên lấm láp bụi hồng, hai ống quần vải mỏng chi chít bông cỏ may.
Dưới tầm mắt hai người một thung lũng meo méo men theo chân các triền đồi. Những ngôi nhà tranh mái xám xỉn, lủn chủn, chen những mái ngói đỏ thắm đang nhởn nhơ những vờn khói lam chiều. Cảnh làng quê đẹp lan man như tranh thuỷ mặc.
***
Hanh ôm mẹ vào vòng ngực rộng, nước mắt lăn dài trên màu da rám nắng, thấm ướt mái tóc điểm sương bà Đỏ. Bà Đỏ rung rung bờ vai thổn thức. Trước niềm vui của bà Đỏ và Hanh, mắt Liên cũng ngân ngấn nước.
Cả nhà tận hưởng phút giây hội ngộ. Ngoài ngõ từng tốp bà con thân cận đến mừng Hanh hoàn thành nghĩa vụ quân sự và chúc mừng nhà bà Đỏ đoàn tụ các con. Đêm cuối năm rộn rả tiếng nói cười…
Bà Đỏ khép liếp cửa chính, vặn cây đèn dầu “Thăng Long” cho tỏ, bớt màu đỏ quạnh. Bà gọi Liên và Hanh cùng ngồi đối diện qua cái bàn gỗ đặt trước bàn thờ. Không khí trong nhà ấm cúng và quện mùi nhang trầm. Bà Đỏ nhìn Hanh, Liên âu yếm, rồi ưu tư nhìn luồng khói nhang bị bóng tối ngồn dần. Ánh mắt bà ươn ướt, giọng buồn hiu, kể:
- Đáng mẹ nói cho Hanh nghe từ lâu, cứ ngại con mang mặc cảm. Nửa tháng trước chị Liên con tìm gặp mẹ, thì mẹ nghĩ không nên dấu con nữa, con bình tĩnh nghe mẹ kể nghe…
Bà Đỏ chìm trong hồi tưởng, bất thần vai dềnh lên, bà oà khóc:
- Hanh con … con … không phải … con… con ruột của mẹ. Liên con mẹ đẻ ra… Liên là chị con bạn dì của con đó. Mẹ … mẹ chỉ có công dưỡng dục con thôi.
- Trời ơi!
Hanh thốt lên hai tiếng đau đớn ấy, lập tức nước mắt anh tràn lả chả xuống bàn. Liên gục đầu xuống cánh tay cô, nước mắt Liên loang lổ chổ trên nền vải màu hồng. Ba người cùng khóc! Lát sau bà Đỏ tiếp:
- Cha Hanh trước độc lập chính là Đại uý Kiên, chi cục trưởng cảnh sát, hồi ấy Kiên thường hoạnh hoẹ, khó khăn cho những gia đình có thân nhân theo “Việt Cộng” Cha Liên là chồng mẹ, mẹ mang thai Liên chưa được ba tháng thì cha Liên hy sinh, cha Liên mẹ táng ở ngoài đồi sim đó, nơi mà Hanh thường khấn vái, cầu nguyện bao năm nay. Dì Đà con, tức là mẹ đẻ ra Hanh, em ruột mẹ, nhỏ hơn mẹ tuổi rưỡi, nhưng dì có da có nạc hơn mẹ nhiều, lại mắt ướt, môi son, hai má luôn luôn hườm hườm như ngồi bên bếp lửa. Cũng tại bà ngoại tụi bây muốn dì Đà có cái nghề, ăn trắng mặc trơn, không cực nhọc nương rẫy như mẹ. Ngoại cho dì ra học May ở ngoài chợ Huyện. Tưởng sẽ may mắn cho dì Đà, ai ngờ lại gặp họa cho tàn đời con gái! Thằng Vệ là mật vụ chìm, chuyên chỉ điểm, đội lốt chủ tiệm may, giả làm người dân tốt để phá hoại ta. Chính cái vỏ đàng hoàng thằng Vệ làm ngoại tin tưởng, mới cho dì Đà vừa làm giúp việc vừa học kiếm nghề tại nhà Vệ. Dì Đà ra học nghề được mấy tháng, thì Vệ âm mưu dâng dì cho quan thầy Kiên, để được Kiên ban thưởng, cho lên lon. Vệ cho Đà uống một ly cà-phê pha đậm thuốc ngủ và thuốc kích thích, rồi nhường cho Kiên phá hoại đời con gái của dì Đà. Dì Đà thức dậy thấy người trần truồng, nằm bên một người đàn ông béo tốt cũng không còn mảnh vải che thân, lại thấy ê ẩm phần dưới cơ thể. Đà biết mình vừa bị hãm nên xé áo quần làm thòng lọng treo người tự tử. Tiếng xé xoèn xoẹt gọi Kiên thức dậy. Kiên lại tiếp trò cưỡng hiếp công khai cho thoả cơn dâm đãng. Ai ngờ lần ấy dì mang thai. Dì Đà sinh Hanh chưa đầy tháng thì dì qua đời vì nỗi uất ức, nhục nhã dì bị sản hậu, băng huyết mà chết. Dì Đà chết trong tay mẹ, trước cơn hấp hối Đà trăn trối: “Em nhờ chị nuôi con em cho nên người … đừng để con em nối giáo cho giặc, máu mủ em nhờ chị dưỡng nuôi … nghe … chị … e … em … đi …”. Thế là mẹ một tay xách hai con thơ, sống nghặt nghèo trong đói rách. Hồi đó, vùng này là vùng trắng, không được mua gạo “Liên gia”, hạt muối, hạt gạo qua tới đây phải chui qua ba bốn ải xét hỏi. Ruộng hai con thấy đó, đây vùng đồi núi, đất “bán sơn địa” không làm ra lúa gạo nhiều, lại máy bay Mỹ thả thuốc phát quang khoai mỳ cũng cháy vàng, đất câng cứng lại, bạc thếch màu. Ngoại con già yếu, lại đói vì nhường cho mẹ ăn để có sữa cho hai con bú.
Ngoại cũng quy tiên. Bà con chòm xóm đây ai cũng đói xanh da, sống như chết mòn, mẹ vì hai con, vì giọt máu của dì Đà còn trên đời và đã nhận trách nhiệm thiêng liêng ấy trước vong hồn dì, mẹ phải sống cho hai con được sống, dù cuộc sống dạo đó muôn vàn cơ khổ, lây lất và ngắc ngoải thôi. Nhờ thương hai con, nhờ niềm tin toàn thắng, hết cơn bi cực đến hồi thái lai nên mẹ mới qua được đoạn trường.
Bà Đỏ kể ngang đó chợt lặng im. Hình như dòng hồi tưởng quá đau đớn làm mắt bà ráo hoảnh, Hanh và Liên cũng thôi khóc, chỉ thỉnh thoảng còn tiếng sụt sùi của Liên. Hanh chờ cho bà Đỏ nghĩ suy. Anh lại hỏi:
- Thưa mẹ, sao từ khi lớn lên con không thấy chị Liên?
- Từ từ mẹ nói cho các con nghe. Bà Đỏ kể tiếp:
- Kiên có lệnh thuyên chuyển vào Nam, thằng Vệ cũng được đi theo. Hắn muốn tâng công với Kiên mới cho Kiên hay dì Đà có sanh một đứa con. Chuyện chi ở làng xã này mà Vệ không biết, huống hồ dì con băng huyết chết phải làm giấy khai tử ở xã về.
Mẹ đoán là Kiên sai Vệ về bắt con còn Kiên gan trời cũng chẳng dám về đây nếu không dàn ngang dọc súng ống lăm lăm trong tay. Một đêm, vừa tối trời, thằng Vệ tràn vào nhà, sau khi bố trí một trung đội vây ráp, mẹ nghe súng đạn lách cách quanh nhà vườn. Khi đó Vệ lộ nguyên hình là thằng Việt gian cảnh sát, hắn hùng hổ tràn vào nhà cùng hai tên cảnh sát giả chiến, chợt hắn đứng sững trước bốn tao nôi, con mắt cáo của hắn nhìn hai đứa trẻ xanh xao đang nằm thiêm thiếp trong nôi. Tiếng súng nổ đùng đoàn và cả tiếng trầm vang của B40 ta, làm thằng Vệ vừa qua cơn khủng khiếp, hắn hốt hoảng ôm một đứa trẻ trong nôi, cuống cuồng tháo chạy, tìm đường rút ra huyện. Mẹ cũng tốc màn chạy theo, ra chưa tới ngõ bị một báng súng nằm lăn quay, bất tỉnh. Sáng mai, mẹ mới biết Liên bị Vệ bắt. Mẹ tính ra chi khu đòi lại con, nhưng đòi được Liên thì mất Hanh, đàng nào cũng tấn thối lưỡng nan! Vì mẹ đã hứa với dì Đà rồi, đành bấm bụng im lặng cho tới khi biết tin Kiên và Vệ thuyên chuyển mất tin tức.
Bà Đỏ lại ngừng kể. Lát bà xây qua Liên nói:
- Mẹ chỉ biết ngang đó thôi. Chuyện Liên tìm được quê cha, gốc gác thì Liên nói cho em nghe đi, mẹ cũng nghe lại nữa.
- Dạ. Thế này Hanh à. Chú Vệ… Hanh cho phép chị gọi bằng chú Vệ, chứ chuyện đã rồi, chị gọi thằng sợ mang tiếng hỗn xược, chứ chị nghe mẹ kể chị căm thù ông đó lắm. Cũng tại chị quen gọi từ nhỏ … chú Vệ vượt biên qua Mỹ, thư về cho dượng Kiên. Trước đây chị gọi bằng ba Kiên, tìm được mẹ, chị gọi dượng Kiên mới đúng. Thư chú Vệ viết có đoạn: “… lúc ấy hoảng quá, tôi sợ rút lui bị phục kích, lại không bắt được con cho anh, anh khiển trách thì khốn, tôi ôm đại một cháu khi chưa kịp hỏi đứa nào con cô Đà. Anh cho cháu Liên tìm về nơi ấy để dò hỏi xem ai là mẹ cháu. Tôi làm ra cuộc ly tán, tang thương này cũng hối hận lắm anh Kiên à. Mong oan hồn cô Đà và cháu Liên tha thứ cho tôi với …”
- Thưa mẹ anh em Hanh. Cho con nói điều này mẹ à. Dượng Kiên cũng nuôi con từ thơ bé, mặc dù hoàn cảnh của dượng sung dướng hơn ngàn vạn lần mẹ, nhưng dượng cũng khổ bởi luôn ray rứt bởi tội lỗi của dượng gây ra trong quá khứ, dượng lại thương con rất mực, có lẽ linh hồn dì Đà theo phù trợ cho con và xui dượng thương con còn hơn hai đứa con gái đỏng đảnh của dượng nữa mẹ à. Thời gian dượng đi học tập, bà vợ của dượng Kiên trốn bán nhà, chồng vàng đem hai cô con gái của bà và dượng Kiên trốn ra nước ngoài, ai ngờ bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp tập thể rồi quăng xác xuống biển cả ba mẹ con làm mồi cho cá. Hanh thấy trời có mắt không. Thật là thiện ác đáo đầu chung hữu báo. Theo chị chỉ có lòng bao dung tha thứ mới làm cho con người biết thương nhau hơn thôi, ích kỷ và lòng độc ác, luôn mưu toan thù hận nhau chính đó khởi nguồn mọi cuộc chiến tranh. Bây giờ dượng Kiên đã sáng mắt, sáng lòng, vừa rồi không làm đơn xuất cảnh H.O mà lại chỉ dẫn cho con tìm được mẹ và em Hanh. Dượng Kiên dạo này theo khuôn hội Phật giáo tụng kinh, đêm đêm lầm rầm niệm A Di Đà và siêng làm những việc thiện của khu phố, công đức cho các chùa chiền. Con nói thật đó à, không vì thiên vị mà con bênh và nói tốt cho dượng Kiên đâu. Gì thì gì chuyện cũng đã rồi. Mang chi cho nặng vào tâm phải không Hanh ?
Nghe Liên hỏi với nụ cười chớm gượng nhẹ trên môi cô. Hanh không vội trả lời mà anh tư lự ngẫm nghĩ hồi lâu. Đôi mắt anh đã khô lệ. Lấy lại bình tĩnh sẵn có. Anh nói:
- Thưa mẹ, muôn đời mẹ vẫn là mẹ của con. Mẹ đã lam lũ cơ cực vì con. Mẹ chưa là người lính nhưng mẹ chính là dũng sĩ, bản lĩnh, can đảm, đứng trước đói nghèo, chống chọi những mưu ma chước quỹ và kể cả những hòn đạn mũi tên của cuộc đời, cuộc chiến để bảo vệ con, đỡ cho con những mũi nhọn nghiệt ngã của số phận, cho con được sống và lớn lên an lành, được vui chơi, ăn học … nên người như hôm nay. Mẹ Đà cho con hình hài, mẹ Đỏ cho con tầm vóc và sự trưởng thành, hướng về phía tương lai xán lạn. Mẹ ơi! Con là con trai duy nhất của mẹ, chị Liên là cô gái duy nhất của mẹ. Mẹ có cả trai, cả gái. Cuộc đoàn tụ giữa mùa xuân này đó là điểm tốt mẹ ạ. Mẹ hãy vui cho chúng con vui.
Nói ngang đó, Hanh nhìn Liên, bắt gặp Liên đang tủm tỉm nhìn Hanh cười. Ánh đèn dầu lắng sâu vào mắt Liên và Phủ tràn mái tóc lưng lửng của cô, cô càng có vẻ đẹp sương khói, huyền ảo. Hanh nói:
- Phải không chị Liên, chị em mình có chung một mẹ. Em có được cô chị đẹp như hoa hậu báo Tiền Phong đó mà.
Hanh đứng lên với lấy đùi tre chống cửa. Ngoài trời đêm ba mươi sâu thẳm đen mượt như vòm cong thảm bằng nhung có gắn những chùm sao lưu ly toả sáng. Hanh đi chếch ra phía trái sân phơi, đến nồi bánh tét đang sôi âm ỉ. Liên bước ra cùng anh, hai chị em lụi hụi châm vào bếp thêm lượt dày củi dộc. Ngọn lửa bừng lên từng cái lưỡi dài, đỏ sáng, liếm rát rạt vào nồi nhôm to đùng và bập bùng … bập bùng thâm vào đêm rất sâu. Nồi bánh lại sôi sùng sục, hơi ấm lan toả cả sân phơi vào tận trong nhà.
Ông Kiên lầm lủi đi qua đồi sim. Cảnh cũ, buộc ông phải nhớ quãng đời ông hơn hai mươi năm trước, ông từng làm mưa làm gió, gây tai hoạ cho cư dân trên cái làng mộc mạc, hiền hoà này… Càng đến nhà bà Đỏ ông càng ăn năn, lo sợ. Nhưng Hanh là giọt máu rơi rớt của ông sót lại trên đời, dục chân ông tìm tới. Ông nghĩ: “Hãy can đảm, rửa bớt tội lỗi của chính mình, không gì bằng đối diện với hậu quả của nó, để trực diện mà bày tỏ lòng sám hối, trốn chạy là hèn nhát và thiếu thành tâm, người ta đánh người chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại với tâm nguyện phục thiện”. Gặp cậu thanh niên qua đường, ông hỏi thêm cho chắc:
- Cậu ơi cho tôi hỏi ngôi nhà tranh đằng kia có phải nhà bà Đỏ
- Đúng đó bác. Thím Đỏ năm ni nhiều khách tới tìm ghê!
Ông Kiên ló khuôn mặt trắng tái vào nhà đã gặp bà Đỏ, Hanh và Liên. Bà Đỏ thấp bé đứng lặng lẽ sau lưng Liên. Liên vượt qua mẹ vội đến hỏi tới tấp:
- Ba mới ra. A quên… dượng ra không tin cho con đón?
Ông Kiên run lẩy bẩy vuốt tóc Liên khi cô sà vào lòng ông. Ông lấm lét nhìn Hanh và lúng túng gọi thầm: “… con … con …”
Hanh vẫn trừng trừng nhìn ông Kiên đang quỳ mọp và đập đầu khấn vái trước bàn thờ Ngoại, dì Đà và ba chị Liên. Trán lăn nhăn những đường nhăn của ông lấm đất cát: “Xin tất cả xá tội cho tôi, cho tôi có cơ hội làm người tốt!” Vẫn ở thế quỳ gối, ông Kiên lết đến chân bà Đỏ, định cúi lạy sống bà. Bà Đỏ hốt hoảng nhóm tránh, nói “Đừng … đừng làm rứa tôi mang tội”…
Hanh thấy thái độ thành khẩn của cha mình, lòng anh bối rối. Sự thù hận ông Kiên chất chứa và dồn cục nung nấu trong lòng Hanh từ lâu tự dưng vơi tràn ra, rồi dâng lên niềm dung thứ. Có phải mối hệ luỵ máu thịt linh thiêng đã xoá dịu lòng anh bớt hằn thù. Anh muốn cất tiếng gọi “cha” mà đời anh chưa lần nào được trực tiếp. Nhưng lý trí anh lại kềm lại không cho tiếng “cha” ấy bật thành lời.
Sau khi ông Kiên xây lăng đắp mộ cho dì Đà, ngoại và cha Liên. Ông trở về thành phố. Trước khi chia tay với Liên ông Kiên nói:
Con ở lại thay dượng, nói đúng hơn là giúp dượng chăm sóc lăng mộ và hương khói ngoại, dì Đà con và ba con. Xin bà Đỏ chọn cho một ngày hiệp kỵ cả ba, thư tin cho tôi biết, hằng năm tôi cho người đóng góp chút công sức và cầu siêu cho ba oan hồn vì tôi mà chết oan. Cho tôi có cơ hội tỏ lòng sám hối…”
Hanh, Liên, bà Đỏ hưởng trọn vẹn một mùa xuân đoàn tụ, hạnh phúc giữa lòng thung lũng, ngày ngày râm ran tiếng chim và chan hoà tình thương của bà con thôn xóm cận lân, cận thân. Những vết chân chim ở khoé mắt bà Đỏ như dần nhạt dần, miệng bà đã lúng búng tiếng cười giòn.
Đêm nay như mọi đêm bà Đỏ vẫn nằm một mình như mấy mươi năm về trước. Hanh đã vào lực lượng công an tỉnh. Liên đi dạy cấp ba ngoài huyện, nhưng bà Đỏ không hề thấy một phút nào cô đơn, buồn bạn cả. Hình như mùa xuân tràn ngập cả bốn mùa, thấm vào chứa chan trong lòng bà và nhen lên một nguồn ấm cúng bao la, có dư âm ngọt lịm bất tận.
Mùa xuân, mùa xuân, xôn xao, xôn xao trong lòng mọi người …