T |
ừ mấy chục năm trước, ở góc thành phố này đã hội đủ các điều kiện thuận lợi cho một khu buôn bán sầm uất: Bến xe, ga tàu, chợ và một con sông nhỏ có cây cầu bê tông nối hai bờ. Thời kinh tế thị trường, dân phố xoay như chong chóng với các thương vụ lỗ lãi, ít ai để ý đến một người đàn bà điên chẳng biết từ đâu mới đến chợ được dăm tháng. Cũng không ai rõ tên tuổi, quê quán, chỉ áng chừng chị ta chưa đến ba mươi, có khuôn mặt dễ ưa, da trắng, tóc dài, phải cái bàn tay, bàn chân thô tháp, gân guốc như đàn ông. Dân chợ gọi là Con Điên. Con Điên ban ngày đi lang thang. Tối, tá túc ở một chiếc lều nào đó trong chợ. Gã quét chợ nhiều lần đuổi, có lúc đã phải dùng đến gậy. Con Điên túm đầu gậy trừng mắt (đôi mắt bồ câu rất đẹp) bảo:
- Đừng cậy thế đàn ông bắt chẹt kẻ yếu nhá! Đây mà thỉnh Quan Âm Bồ Tát thì cả nhà anh phải sa xuống chín tầng địa ngục. Buổi chiều, khi chợ đã vãn người, Con Điên tha thẩn lượm lá bánh nhặt những hạt gạo còn sót lại vừa ăn vừa nghêu ngao một bài hát cổ mà giọng điệu nghe buồn nẫu ruột:
Ly khách...chén rượu đắng nước mắt
Trăm năm, cuộc bể dâu, hồn phiêu diêu...
Khiếp nhất là lúc Con Điên lên cơn. Khi ấy tựa như có ma quỷ nhập vào bắt mất hồn, mắt nó long sòng sọc giống con nhang bị đồng ốp, phút chốc lại thảng thốt, bí hiểm như người bị mắc bệnh hoang tưởng. Sau cơn vật vã khoảng nửa giờ, Con Điên bắt đầu xé quần áo. Và rồi, trong tình trạng rã rời cả thể xác lẫn tinh thần như thế, nó đi lang thang trên đường phố. Trước cảnh ấy, những người đứng đắn cúi đầu nhìn đi nơi khác. Mấy mụ đàn bà chanh chua ngồi lê đôi mách ở chợ nguýt dài, tỏ ý ghê tởm. Còn cánh choai choai vô học, vô giáo dục không biết ngượng là gì, nhìn chòng chọc vào những chỗ đáng lẽ không nên phô ra trước bàn dân thiên hạ của Con Điên, cười hô hố.
Khi tỉnh, Con Điên không khác gì một người phụ nữ bình thường. Cái vẻ dịu dàng đầy nữ tính trong cách ứng xử của nó làm người ta động lòng trắc ẩn. Đôi lúc các bà các cô còn nhờ Con Điên gánh hàng từ sân ga vào chợ. Thù lao cho nó là cặp bánh mỳ, chiếc bánh chưng hoặc một hai nghìn.
Bẵng đi mấy tháng không thấy Con Điên. Dân phố ai cũng nghĩ, có thể nó được đưa vào nhà thương hay đã thang lang đến khu khác của thành phố. Ai ngờ, một hôm Con Điên trở về chiếc lều quen thuộc trong chợ Ga với cái bụng to kềnh. Con Điên có chửa! Cả phố đồn ầm lên. Các bà các cô ngạc nhiên thì ít mà tò mò muốn biết gã đàn ông nào là tác giả của cái bụng ấy thì nhiều. Từ tò mò đến miệt thị, khinh bỉ. Trong thâm tâm các bà, ai cũng nghĩ rằng Con Điên cũng là thứ công dân loại hai, là đối tượng mất trí khôn không có quyền làm mẹ. Họ nhìn nó bằng cặp mắt ghẻ lạnh. Mà kể ra thì cũng đúng thật. Một con điên có chửa, thật ngược đời!
Vậy mà Con Điên, mỗi khi vào chợ, nó ưỡn cái bụng thúng ra, mặt vênh vênh, hai tay vung vẩy, mắt luôn nhìn thẳng, phớt tất, coi như thiên hạ không có ai. Từ khi có chửa, hình như Con Điên khỏi bệnh. Nó không hát nghêu ngao hoặc xé quần áo vừa chạy vừa cười sằng sặc trên đường phố nữa. Những biểu hiện của giới tính, một thứ ân huệ mà tạo hóa ban cho người đàn bà đã trở lại thấp thoáng trên gương mặt. Có điều, những biểu hiện đó không hẳn chỉ là niềm vui mà còn là dấu hiệu mơ hồ, dự cảm trước cho số phận Con Điên, một khi, có lúc nào đó, nó biết được mình cũng là một CON NGƯỜI.
Vào một tối mùa đông mưa phùn gió bấc, Con Điên trở dạ. Những cơn đau bụng dữ dội quặn lên khiến nó gần như phải bò vào trú tạm trong túp lều của bà bán bún ốc. Chợ chiều đã tan từ lúc mặt trời gác bóng. Người đàn bà khốn khổ vừa thở dốc vừa gào đến nghẹn giọng. Gió bấc lạnh hun hút. Mưa xiên. Những hạt nước nhỏ li ti buốt như kim châm. Tiếng rên rỉ của Con Điên lẫn trong tiếng gió rít...Vào đúng lúc thập tử nhất sinh như thế, chẳng hiểu có phải do số phận đem đến hay không, một người đàn bà cầm đèn pin từ trong chợ đi ra. Đó là bà Dần, bán hàng nước ở cuối phố Thợ Rèn, gần cầu Bê Tông. Nghe tiếng rên, bà Dần cầm đèn lại gần. Khi nhìn thấy Con Điên lăn lộn, miệng hớp hớp như cá mắc cạn, bà giật mình kêu lên:
- Con Điên...Trời Phật! Nó sắp đẻ...
Phải đến mười lăm phút bà Dần mới đưa được Con Điên về nhà. Cũng may, trước đây cũng đã có mấy năm làm nghề đỡ đẻ, nên bà biết phải làm gì trong tình trạng sản phụ đã vỡ ối và gần như kiệt sức thế này. Thực ra, ca đẻ cũng không đến nỗi khó vì thằng bé ra thuận chiều. Cái khó ở đây là, Con Điên chẳng có một thứ gì để quấn cho đứa trẻ ngoài bộ quần áo bẩn thỉu rách như xơ mướp. Suốt đêm ấy, bà Dần phải cắt tấm chăn cũ rồi khâu lại làm tả lót cho thằng bé. Bà lấy bộ quần áo cánh của mình đưa cho Con Điên:
- Chị mặc vào rồi cho con bú. Nó khát sữa rồi đấy.
- Con cảm ơn bà...Không có bà cứu...mẹ con con chết mất.
- Dào ôi! Ơn với huệ gì. – Bà Dần vừa nhai trầu vừa thủng thẳng bảo – Tên nhà chị là gì? Liệu có còn nhớ được không?
- Dạ...Tên con là Nhài.
- Còn quê ở đâu?
- Con cũng không biết quê ở đâu bà ạ - Nhài nhíu mày ngẫm nghĩ một lúc khá lâu rồi nói tiếp – Hình như ở làng...Rồng.
- Nhưng làng Rồng ở huyện nào? Tỉnh nào?
- Bà để con nghĩ đã. Thật tình...lâu ngày rồi con quên mất...
Bà Dần thở dài nhìn người thiếu phụ:
- Thôi, thế này, tôi chỉ có một mình. Nhà có hai gian, một gian bán quán, kể ra thì chật nhưng ăn hết nhiều chứ ở hết mấy. mẹ con chị tạm thời cứ ở lại đây. Khi nào cháu nó cứng cáp rồi sẽ tính sau, chứ chị mà tha nó đi khắp nơi là gay lắm.
Nghe vậy, người đàn bà điên bật khóc. Nước mắt chảy tràn xuống hai gò má xanh xao.
- Nào! Có bằng lòng không thì nói, đừng khóc nữa.
- Con thật muôn ngàn đội ơn bà.
- Thôi được rồi. - Bà Dần nhẹ nhàng bảo - Chị không biết tôi nhưng tôi biết chị từ lâu rồi, nhất là những lúc chị lang thang ở chợ hát những bài không đầu không cuối ấy. Này, tôi hỏi thật, dạo này thỉnh thoảng còn hay lên cơn không?
Nhài nhìn bà Dần mắt chớp chớp:
- Từ khi có mang đến giờ cháu chưa lên cơn lần nào.
- Vậy thì...may ra...- Bà Dần khẽ gật đầu - Cầu mong Đức Phật phù hộ độ trì cho hai mẹ con tai qua nạn khỏi.
Nói điều ấy, trong thâm tâm bà Dần thấp thỏm niềm hy vọng. Có thể bệnh của chị ta là điên tình. Bây giờ kiếm được mụn con, tức là trạng thái tâm lý vốn bị ức chế phần nào đã được giải tỏa, may ra khỏi được chăng.
Khi đưa Nhài về, thực tình, bà Dần cũng phân vân lắm. Nhìn cảnh người sản phụ vượt cạn một mình không cứu không đành, nhưng khi mẹ tròn con vuông thì ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra. Bởi vì dù sao đó cũng là một con điên. Lòng nhân ái của con người thì rộng vô cùng mà khả năng lại có hạn. Ở đời, chính vì cái hữu hạn ấy làm người ta trở nên nhẫn tâm trước đồng loại.
Nhìn cảnh ngộ của mẹ con Nhài bà Dần bất giác nghĩ đến thân phận mình...
...Tháng Bảy năm Mậu Tý, nước lên to, đê Trung Hà bị vỡ. Cả mấy tổng vùng Yên, Giáp bên hữu ngạn sông Kinh Thầy ngập trắng nước. Dân trong vùng đói to phải kéo nhau đi tha hương kiếm việc làm. Bà Dần lúc ấy còn là cô gái mười chín tuổi theo người làng ra thành phố. Lần hồi mấy năm, lúc thì đi ở làm con sen, lúc gánh nước thuê, có lúc đói vàng mắt phải liều đi xin ăn. Năm hai ba tuổi bà gặp được một anh xích lô nghèo. Hai người cùng cảnh, thương nhau thật lòng rồi nên vợ nên chồng. Sau hòa bình, bà được khu phố cử đi học lớp nữ hộ sinh. Gần chục năm làm việc ở trạm xá, bà đã đón không biết bao nhiêu cô bé, cậu bé chào đời, vậy mà đến lượt mình, ông bà mong đến mỏi mắt vẫn chẳng có lấy một mụn con. Đến năm bốn mươi mốt tuổi, bà bàn với ông kiếm đứa con nuôi cho vui cửa vui nhà. Đang tìm thì dịp may lại đến...
Hôm ấy cũng vào cữ rét như thế này, có một người phụ nữ chừng hai bốn, hai nhăm tuổi đi xích lô đến trạm xá. Cô ta đã đến tháng đẻ, đau bụng mấy ngày rồi mà đứa bé chưa chịu ra. Bà Dần hỏi ở phố nào, cô ta bảo là công nhân nhà máy cơ khí. Chồng là bộ đội mới đi B, đã điện về mẹ đẻ tận Hải Dương nhưng chưa thấy ra. Lúc ấy, cứu được mạng người là quý nên bà Dần không mấy quan tâm đến chuyện cô gái nói thật hay nói dối mà cứ bắt tay vào việc. Ngôi thai ngược. Bà phải vất vả đến hơn một tiếng đồng hồ mới đưa được con bé ra. Vì không có thân nhân bên cạnh, bà Dần tự nguyện giúp đỡ hai mẹ con sản phụ như là chăm sóc con mình. Thiếu phụ có vẻ ít sữa. Đến ngày thứ năm, con bé khóc dữ quá, cô ta bảo:
- Bà trông cháu giúp con. Con phải ra mua hộp sữa để cháu ăn thêm với lại tranh thủ tạt vào ga một tý xem bà cháu đến chưa...
Bà Dần cả tin, vui vẻ bảo:
- Ừ, chị cứ đi đi. Tàu sắp về đấy. Khéo không bà cụ lại bị lạc.
Người mẹ ôm đứa bé lên thơm vào má nó, đứng tần ngần mãi khiến bà Dần phải giục:
- Cứ đi đi rồi chốc lát lại về với nó...
Chị ta xách túi bước ra cửa còn quay lại nhìn con mãi rồi mới vẫy một chiếc xích lô.
Ở nhà, bà Dần chờ đến chiều, đến tối, đến cả tuần sau không thấy người mẹ trở về. Bà tìm vào nhà máy cơ khí hỏi, người ta cho biết, nhà máy không có nữ công nhân nào như thế. Bị lừa mà bà Dần mừng ra mặt. Bà bảo với chồng: - Trời mang nó đến cho nhà mình đấy! Đứa bé gái được đặt tên là Nguyệt, sau này lớn lên coi ông bà như cha mẹ đẻ. Năm chín mươi, Nguyệt hai mươi mốt tuổi, lấy chồng là một kỹ sư địa chất. Năm chín hai, vợ chồng đưa nhau vào lập nghiệp ở thành phố Buôn Mê Thuột. Bà nhớ con đứt ruột nhưng chỉ biết thở ngắn than dài. Còn hai vợ chồng già, những tưởng nương tựa vào nhau lúc tuổi xế bóng, ai ngờ, trời chẳng chiều người, cuối năm ngoái, ông mắc chứng cảm hàn rồi đột ngột qua đời, chẳng dặn lại được gì. Bà đau đớn khóc chồng và khóc cho cả số phận của mình...
Bây giờ trong căn nhà chật hẹp cạnh bờ sông lại có tiếng trẻ con khóc, bà Dần vui lắm. Những nếp nhăn trên khuôn mặt khắc khổ một nắng hai sương lam lũ của bà dường như giãn ra. Bà đặt tên đứa bé là thằng Phúc, những mong cuộc đời nó sau này gặp nhiều may mắn. Khi bé Phúc được hai tháng, Nhài bảo bà Dần:
- Mẹ con cháu không thể ăn bám bà mãi được. Con bàn thế này, từ ngày mai, bà ở nhà trông cháu để con chạy chợ, kiếm thêm chút ít vào việc chi tiêu gia đình.
Bà Dần lắc đầu:
- Con cứ ở nhà để cháu cứng cáp lên đã. Trước mắt, cái quán này vẫn có thể nuôi được cả nhà.
Nhài khẩn khoản:
- Con biết bà thương cháu nhưng chẳng lẽ mẹ con con cứ sống nhờ vào đồng vốn để dành của bà. Bà cứ trông thằng Phúc cho con. Nhất quyết con phải chạy chợ...
- Nhưng mà... - Bà Dần ngập ngừng - Thôi cũng được. Mẹ chỉ sợ ở chợ Ga người ta đã biết...
- Bà ơi! - Nhài mỉm cười bảo - Con biết ý bà rồi. Con sẽ đi chợ Hôm, chợ Mai, chợ Bưởi chứ không ra ga để các bà ấy nhận ra mặt đâu...
- Ờ! Thế cũng phải - Bà Dần gật đầu - Chị đã muốn thế mẹ cấm cũng chả được.
Nhài chạy chợ. Cuộc sống của gia đình khá hẳn lên. Cô chỉ đi buổi sáng, chiều ở nhà trông con, bán quán giúp bà Dần. Từ ngày sinh con, Nhài đẹp hẳn ra. Cặp mắt bồ câu lúng liếng làm cánh đàn ông chết mệt. Quán đông khách, hàng bán chạy. Bà Dần mừng ra mặt.
Thời gian như thoi đưa. Thấm thoắt mẹ con Nhài ở với bà Dần đã hơn một năm. Thằng Phúc hay ăn chóng lớn phổng phao như một chú ngỗng non. Một hôm có hai thanh niên ăn mặc nhếch nhác, trông như dân bụi vào quán uống nước chè và hút thuốc lào. Thấy hai gã nhìn thằng Phúc rồi đưa mắt cho nhau bà Dần đã ngầm để ý. Lúc trả tiền nước, thằng có bàn chân loang lổ như dân bạch tạng hỏi:
- Thằng bé này là con Mụ Điên phải không bà?
- Chết, sao các bác độc mồm thế? - Bà Dần nghiêm giọng - Nó là cháu ngoại tôi đấy.
- Bà chỉ khéo giấu. Gã kia cười nhạt - Rõ ràng nó là con con Điên. Bà rước về sau này nó lại điên như mẹ nó thì...
Nghe chướng tai, bà Dần nóng tiết, mắng cho hai thằng một thôi một hồi. Chúng cười hềnh hệch rồi kéo nhau đi. Từ đấy bà Dần luôn cảnh giác. Những lúc Nhài đi chợ nếu có việc cần kíp, bao giờ bà cũng mang cháu gửi hàng xóm.
Bẵng đi một thời gian không thấy hai thằng bụi đời đến quán, bà đã hơi yên tâm. Có lần bà đem chuyện ấy nói với Nhài. Cô bảo: “Chúng nó rỗi mồm trêu bà đấy. Mặc kệ chúng”.
Hôm ấy Nhài đi chợ Bưởi sớm. Bà Dần thương cô con nuôi vất vả tần tảo, nên lựa lúc chưa bán hàng, mang chậu quần áo xuống chân cầu giặt. Thằng Phúc còn đang ngủ, gọi dật thì phải dắt cả nó đi, bà Dần bèn khóa cửa lại cho chắc. Vả lại bờ sông gần nhà, chỉ giặt một loáng là xong.
Khác với mọi lần, hôm nay bà thấy bụng dạ bồn chồn. Giặt vội, bà bê chậu quần áo cố sức leo mười chín bậc đá, vừa leo vừa thở như kéo bễ. Đến nhà, bà chợt sững người. Cửa đá bị mở và thằng Phúc biến mất. Tai họa rồi! Bà Dần thoáng nghĩ. Bà muốn hô hoán lên nhưng vừa mở miệng bỗng thấy trăm ngàn đốm sáng xanh đỏ tím vàng chập chờn trước mắt. Đầu óc quay cuồng. Ngực nghẹt thở. Bà đưa hai tay ra phía trước chới với, loạng choạng một lúc rồi ngã vật xuống, chân tay co quắp...
Vừa về đến nơi thấy hàng xóm đầy nhà Nhài đã sinh nghi. Khi biết tin thằng Phúc đã bị bắt mất thì cô quẳng quang gánh, lặng lẽ vào gian buồng ngồi bó gối nhìn đăm đăm vào góc tường nơi có giọt nắng tròn như hòn bi ve từ lỗ thủng trên mái rọi xuống. Ai hỏi cũng không nói. Chiều tối, bà Dần tỉnh lại vào buồng vừa khóc vừa bảo:
- Lỗi tại mẹ. Đáng ra mẹ đem gửi cháu thì không đến nỗi. Bà con dân phố đã báo công an. Thế nào rồi người ta cũng tìm ra.
Mặc cho bà Dần dỗ dành an ủi, mấy ngày liền Nhài chỉ im lặng, không ăn, không ngủ, ngồi nguyên một tư thế như pho tượng đá, lạnh toát không sinh khí. Sáng ngày thứ tư, Nhài chợt nhìn thấy tấm ảnh phóng to chụp lúc sáu tháng tuổi của thằng Phúc treo trên tường. Cô đứng dậy gỡ xuống, vừa nhìn hình con vừa thổn thức. Bà Dần hồi hộp theo dõi, nghĩ rằng mấy ngày qua, vì thương con quá Nhài mắc chứng trầm cảm, giờ khóc được tức là cơn kịch phát đã qua...Bà khấp khởi mừng thầm. Bất chợt một chuỗi cười ré lên vừa đau đớn vừa man dại nghe đến rợn người. Bà hốt hoảng định kéo Nhài vào giường thì cô hất tay ra, xé tung tấm áo đang mặc, vò rối đầu tóc, chạy bổ ra đường...
Phía đông thành phố, cách chợ ga chừng bảy tám cây số có một khu dân cư nằm sát bờ sông Cái với những mái lều tùm hum được lợp bằng đủ các thứ vật liệu phế thải lượm từ bãi rác về. Đó là xóm Liều. Xóm mới mọc lên chừng vài ba năm nay. Cư dân ở đây tất cả đều làm mỗi một nghề: Nghề hành khất. Thành phần của xóm Liều khá phức tạp. Phần lớn họ là dân lương thiện. Do nhiều hoàn cảnh khác nhau, họ như những cánh bèo xơ xác sau trận bão theo dòng nước lũ trôi dạt khắp nơi, qua bao chặng dài thất thểu trên đường thiên lý, tấp lên thành phố, hy vọng ở nơi đô thị nhộn nhịp này có cơ may kiếm được miếng ăn. Phần còn lại là những kẻ du thủ du thực, những gã tội đồ đã mãn hạn tù...Bọn này hành tung có phần bí hiểm và cái nghề của chúng không phải lúc nào cũng là ăn mày. Xóm Liều có hai gia đình cả vợ chồng con cái đều sống nhờ vào bị gậy. Một trong hai gia đình này có đứa con gái hơn hai tuổi tên là Nụ. Con bé tỏ ra rất được việc mặc dù nó rất quắt queo, da xanh nhợt, đầu to, trán gồ, chân tay teo tóp như ống sậy. Hàng ngày, vào tầm bảy tám giờ, con Nụ được bế vào chợ Cửa Tây hoặc ra bến xe Liên Tỉnh. Bố nó là người đàn ông dị dạng, quần áo vá chằng vá đụp, miệng dẻo quẹo:
- Lạy ông lạy bà! Quê cháu vỡ đê, mẹ cháu bị nước cuốn...ông bà nhón tay làm phúc...
Nhìn cảnh ấy, con người dù có trái tim sắt đá đến mấy cũng mủi lòng mở hầu bao. Có buổi chưa tàn chợ phiên, cái bị cói (mà dân hành khách gọi là túi càn khôn) đã lưng lửng những gạo, ngô, bánh giò, bánh mì...Ngày hôm sau cũng vẫn đứa bé ấy nhưng người mang nó đi chợ lại là bà vợ. Bà ta xấp xỉ năm mươi, da mặt sần sùi như bệnh phong, địu con Nụ trên lưng, giọng ngọt xớt:
- Nhà hàng xóm bị cháy, bố cháu xông vào lửa cứu mấy đứa trẻ chẳng may bị bỏng chết. Cháu thì bệnh tật... phải muối mặt mang con đi hành khất... Lạy ông lạy bà, lạy cô cậu...bớt chút gọi là...
Tối tối, những chiếc bị cói được đổ ra, cả nhà “kiểm kê”. Một hôm, gã láng giềng cũng là dân xóm Liều, tên là Khải nhìn thấy cảnh đó nói nửa đùa nửa thật:
- Nhà bà cho tôi mượn con bé Nụ mấy hôm.
Mụ ăn mày (xóm Liều gọi là bà Tiêu) cười nhạt:
- Đừng hòng nhé...
Khải mè nheo:
- Tạng tôi thế này ngửa tay xin ăn chẳng đứa chó nào nó thí cho cả. Hai bác giúp đỡ mấy hôm, nếu không tôi...chết đói mất.
Bà Tiêu sẵng giọng:
- Con bé là hòn vàng của nhà này đấy, muốn mượn phải...chi phần trăm hoa hồng.
- Gớm, bà chị riết róng quá!
- Nói thật đấy. Mỗi ngày chú đưa tôi một chục. Mà cũng chỉ cho thuê ba ngày thôi.
...Tối ngày thứ hai, Khải mang con Nụ trả bà Tiêu cùng với tiền “lệ phí”. Bà Tiêu sờ trán con Nụ thấy nóng như hòn than, trừng mắt nhìn hắn:
- Chúng mày bắt nó bêu nắng suốt ngày, chẳng trách nó sốt. Thôi nhé, ngày mai thì...cắt, tự đi kiếm lấy mà ăn..
- Kìa, bà chị! – Nó nóng sơ thôi mà...
- Cút đi! Bà Tiêu tức giận quát – Con cái chúng mày đẻ ra đâu mà chúng mày xót.
Khải lủi thủi về lều, bụng nghĩ thầm: “ước gì mình có một đứa bé...”. Mấy hôm sau, thằng Đạc Bạch Tạng, cũng là dân bị gậy (Sở dĩ có tên Bạch Tạng là do nó đi đêm về, chẳng may tụt chân xuống thùng vôi mới tôi, bị bỏng xuýt phải tháo khớp, khi khỏi, lớp da bàn chân, cổ chân loang lỗ) bảo thằng Khải:
- Mày biết không, con Nhài đẻ được thằng bé hơn một năm rồi.
- Mày chỉ phịa. Trông nó nhếch nhác như thế, bố thằng nào dám...
- Chính mắt tao trông thấy nó bế một thằng con trai ở quán nhà mụ hàng nước phố Lò Rèn. Này, tao vừa nghĩ ra một kế.
- Kế gì? Có ăn được không? Tao đang đói đây.
- Tìm cách tóm được thằng bé thì chúng mình mới mong sống ở đất này được. Cứ nhìn vợ chồng mụ Tiêu thì biết. Nhà ấy có gửi vàng về quê đấy.
- Nhỡ nó phát hiện ra báo công an thì sao? Tao sợ vào trại lắm rồi.
Đạc Bạch Tạng cau mày:
- Ai người ta tin con Điên. Với lại ta “mượn tạm” nó kiếm ăn vài tháng rồi lại giả, sợ gì.
- Tao vẫn hơi chờn...
- Cứ đi với tao. Chỉ cần mày đứng ngoài canh chừng, còn mọi việc tao lo.
Kể từ lúc hai thằng bàn nhau, sau mấy chuyến thăm dò, rình rập nắm được quy luật đi lại của Nhài và bà Dần, lựa lúc bà xuống sông giặt quần áo, Khải nấp ở gốc xà cừ cảnh giới, thằng Đạc dùng chìa vạn năng mở khóa, dấp ê te vào mặt thằng Phúc rồi bế nó đi...
Bắt được thằng Phúc, thằng Đạc và thằng Khải lập tức rời khỏi xóm Liều. Chúng kéo nhau xuống bến ô tô Nghĩa Phương vừa để tránh bị phát hiện vừa tìm cơ hội làm ăn. Tại bến xe phía
- Thằng bé này là con trai tôi. Mẹ nó cũng dân bị gậy nhưng tháng trước bị ô tô cán chết. Tôi thì mắc chứng thấp khớp, đi lại khó khăn. Bây giờ thế này...Ai có nhu cầu thuê thằng bé thì cứ bảo tôi. Thời gian tính theo giờ và giá cả thỏa thuận...
Nghe vậy, cánh ăn mày ngẩn ra một lúc rồi bỗng nhao nhao xô đến:
- Tôi...Tôi...thuê trước.
Từ đấy, thằng Phúc được cánh ăn mày mang đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Nó còn bé tí, chẳng biết gì. Người ta tha lôi đến đâu thì nó đến đấy, cho gì nó ăn nấy, có khi cả tuần không được tắm rửa. Sau ba tháng người nó quắt lại. Một lần, vì tham lam, mụ Gắm, tuy đã nít được các thứ xin được đầy chặt bị, vẫn cứ cắp thằng bé thập thững dọc phố Khách không chịu về. Đáng lẽ vào giờ ấy là đến phiên lão Ngỗ Chột. Chờ mãi sốt ruột, lão bổ đi thì gặp ngay mụ Gắm chân Cột Đèn. Lão Ngỗ giằng lấy thằng bé, giọng sừng sộ:
- Quá hai tiếng rồi đấy. Nhà chị ăn dày vừa chứ. Tối nay nhà chị phải trả cả tiền cho thằng Đạc.
- Còn lâu nhá! - Mụ Gắm nguýt dài - Mà này, hình như nó đang sốt. Đừng mang nó đi nữa.
- Nhà chị nói hay nhỉ? - Lão Ngỗ quắc mắt - Đợi mấy hôm mới đến lượt, bây giờ bảo mang nó về, ngày mai tao lấy gì nhét vào mồm?
Lão xốc nách tha thằng bé đi. Thằng bé đã mệt lắm. Nó không còn đủ sức khóc mà chỉ thở khò khè như bị suyễn. Trán nó nóng hầm hập, mồ hôi nhớp nháp khắp người. Nắng gắt. Cả thành phố như đang lên cơn sốt. Mặt đường bê tông nhựa nhão ra. Nóng trên trời, nóng dưới đất hầu như hút kiệt sức lực con người. Lão Ngỗ vừa bế thằng bé vừa bước lếch thếch. Chiếc bị cói rách kéo trễ một bên vai.
Vào đúng lúc lão Ngỗ thất thểu ngoặt sang phố Đường Sắt thì bất chợt gặp con Điên từ ngõ hạ đi ra. Đầu tóc rũ rượi, trên mình không một mảnh vải che thân, con Điên đang nghêu ngao hát: “Ta chèo thuyền vào Thiên Thai mua ba mươi sáu nụ cười...”, thoắt nhìn thấy lão Ngỗ, nó sững lại, nhìn chằm chằm vào thằng bé. Rồi, như có sự linh cảm của người mẹ mách bảo, nó lao đến như một con báo cái, giằng phắt đứa trẻ trong tay lão ăn mày. Sự việc xảy ra quá nhanh. Khi lão Ngỗ còn đang ngớ người ra thì Con Điên ẵm thằng bé chạy dọc phố Đường Sắt với tốc độ của một vận động viên điền kinh. Chừng nửa giờ, hai mẹ con về đến chợ Ga. Chạy vã đường dài, dưới nắng tháng sáu đã thấm mệt, Con Điên mang thằng bé vào trong quán bà Bún ốc. Lúc ấy đã xế trưa. Chợ tan từ lâu. Nhìn thấy Con Điên bế đứa bé, những người mua hàng trước đây thương tình, có ai đó vứt cho bộ quần áo tàng tàng. Chiều xuống, hàng Phố có người nhắn về báo cho bà Dần. Được tin, bà hớt hải chạy ra. Con Điên vẫn ôm thằng bé chặt trong lòng không cho ai động đến nó. Bà Dần lách đám đông lại gần:
- Nhài ơi! Mẹ đây.
Hai vành môi con điên cắn chặt, cặp mắt u tối nhìn trừng trừng vào bà lão. Một lúc sau, dường như đã nhận ra người quen, nó òa lên khóc.
Bà Dần nhẹ nhàng gỡ thằng Phúc ra khỏi tay người mẹ:
- Nào, ra đây với bà...Cha đời những quân thất đức, xuýt nữa thì nó hại cháu yêu của bà.
Người thằng bé vẫn nóng như hòn than nhưng nó đã nhoẻn miệng cười, vòng tay ôm lấy cổ bà Dần, dụi cái đầu tóc khét nắng vào cổ bà đầy tin cậy.
Nhài đã bình tĩnh trở lại. Cô lặng lẽ bước theo hai bà cháu. Bóng ba người đổ nghiêng nghiêng trong nắng chiều.
Đ.V.S