Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị 30/04/2024 Danh sách tạp chí Hotline: 02333 852 458 Đặt báo Giới thiệu tạp chí

Tìm kiếm trên website chúng tôi

X

Đêm miền biên ải

T

iệc rượu kéo dài tới mười một giờ khuya vẫn chưa kết thúc. Năm Tuấn ngồi ở mũi thuyền ngắm nhìn những khuôn mặt xung quanh qua ánh sáng nhợt nhạt hắt ra từ một ngọn nến lớn. Sông Hậu về đêm, nơi tiếp giáp với đất bạn Campuchia phong cảnh thật thanh bình, yên ả. Có lẽ, chỉ có tiếng gió lao xao trên ngọn cây ven bờ và tiếng sóng dập dìu, eo óc dưới mạn thuyền lúc này là những thứ âm thanh nghe rõ hơn tất cả. Một phần vì ngồi ôtô trên một chặng đường ngót nghét cả nghìn cây số để vào đây, phần vì chất men đã bắt đầu ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng nên Năm Tuấn đã cảm thấy rất mệt. Nhưng chả nhẽ đánh bài chuồn, bỏ dở cuộc vui người ta tổ chức ra để mừng cho mình, một cựu chiến binh vào thăm lại chiến trường xưa. Thôi thì hãy cố gắng ngồi lại một lúc nữa với những con người tốt bụng để vừa nhâm nhi vừa trò chuyện. Năm Tuấn tự đặt ra cho mình điều kiện là phải uống vừa phải, nói vừa phải, để luôn luôn giữ cho tâm trí mình tỉnh táo, chững chạc.

Một người nữa vừa bước xuống thuyền. Đó là một người đàn ông trạc độ năm lăm tuổi. Ông ta chào chung tất cả mọi người một câu rồi ngồi xuống khoang thuyền, hai chân xếp bằng lại, mặt hướng về Năm Tuấn. Thái độ của ông ta có vẻ rất tự tin. Sau khi đã uống cạn ly rượu từ tay chủ nhà trao, ông ta mới nhìn chằm chằm vào mặt Năm Tuấn lên tiếng: “Hồi chiều tui có nghe nói anh vừa ở quê vô nhưng vì bận công việc giờ mới tới thăm anh được. Chà, trông anh chẳng khác xưa là mấy. Ta uống với nhau một ly mừng cho cuộc gặp gỡ này nhé!”. Nói rồi người đàn ông nâng ly rượu lên hướng về phía Năm Tuấn. Năm Tuấn cũng không ngần ngại nâng ly rượu lên hướng về phía ông ta. Mọi cặp mắt đổ dồn về phía anh. Hai người chạm ly. Chạm xong, người đàn ông ngửa cổ uống ực một cái. Còn Năm Tuấn, anh vẫn giữ nguyên ly rượu trong tay. Sở dĩ anh chưa uống vì anh chưa nhớ ra người đàn ông này là ai. Thật lạ! Trong số những người có mặt hôm nay, dù thời gian đã lùi lại phía sau khá xa; dù tuổi tác, nét mặt của mỗi người đã thay đổi đi ít nhiều, ấy thế mà khi gặp lại họ, anh đều nhận ra tất cả. Còn riêng với người này sao nghĩ mãi Năm Tuấn vẫn không thể nhớ ra. Hay ông ta đã nhầm anh với một người nào đó? “Tui là Đỏm, Hai Đỏm đây! - Người đàn ông lại lên tiếng. - Còn anh, anh là Năm Tuấn đúng không? Anh còn nhớ cách đây mấy mươi năm trước tại bờ sông Bình Di…”. Người đàn ông nói đến đó thì dừng lại không nói nữa. Còn Năm Tuấn, chỉ trong tích tắc, khi người đàn ông tự giới thiệu tên mình, anh cũng đã nhớ ra ông ta là ai và đã gặp ông ta trong hoàn cảnh nào. “Anh thấy nơi này giờ khác xưa nhiều không?”. Người có tên là Đỏm lại lên tiếng. Năm Tuấn không trả lời anh ta mà chỉ khẽ gật đầu. Cái gật đầu như muốn nói rằng, tất cả đã thay đổi, cả anh cũng thay đổi, cả tôi cũng thay đổi. Thay đổi rất nhiều so với ngày ấy.

Tiệc rượu càng về khuya càng trở nên rôm rả. Đã lâu lắm rồi Năm Tuấn mới được sống lại cái không khí ồn ào, náo nhiệt nơi vùng biên cương sông nước này cùng cái tư chất phóng khoáng, chơi hết mình của người dân Nam Bộ mà anh từng một thời nếm trải. Chỉ có khác là hồi đó những người có mặt hôm nay, từ anh Năm Bủng, đến Hai Đỏm…và cả anh nữa đều còn đang rất trẻ. Nay, ai cũng lù xù, đầu hai thứ tóc. Mặt mũi thì chân chim, chân gà chồng chéo ngang dọc. Chả trách cả chủ lẫn khách gặp nhau mà chả nhận ra nhau. Được cái tửu lượng thì ai cũng dồi dào, hăng hái còn hơn cả thời trai trẻ. Hết ly này tới ly khác, hết chai này tới chai khác mà cuộc vui vẫn chưa chịu tàn. Năm Tuấn đã thực sự thấm mệt nên cũng chỉ nâng lên hạ xuống cái ly cho phải phép. Anh nhâm nhi lát xoài tươi thái nhỏ dầm nước mắm ngồi nghe Năm Bủng ca vọng cổ, đợi giải tán, rồi lăn ra khoang thuyền ngủ lúc nào không hay. Tỉnh lại mới biết là mọi người đã ra về từ lúc nào. Chỉ còn lại anh và gia đình người chủ thuyền. Họ mắc mùng, lót gối, đắp mền cho anh lúc nào anh cũng chả biết. Thế mới biết ngấm rượu là ngủ say như chết, ngủ như không còn biết trời đất là gì. Nhưng tỉnh rượu mới là điều lạ lùng. Tỉnh vô cùng, tỉnh không thể nào ngủ lại được nữa. Chả biết người khác có vậy không, chớ Năm Tuấn thì chịu. Cả lúc này cũng vậy, dù đầu óc vẫn quay cuồng, nôn nao, dù con thuyền đang tròng trành, chênh chao êm ái, anh vẫn không sao ngủ lại được nữa. Thiệt giống hệt cái đêm cách đây mấy mươi năm trước. Năm Tuấn bỗng nhớ tới Hai Đỏm và câu nói nửa chừng của anh ta. Anh biết Hai Đỏm nhắc tên con sông ấy không phải chỉ để Năm Tuấn nhận ra anh ta mà cái chính là muốn Năm Tuấn nhớ tới một chuyện xảy ra đã lâu. Mà chuyện ấy thì có lẽ cả anh và Hai Đỏm không ai là không nhớ.

…Những ngày gần cuối năm bảy lăm, lúc miền Nam vừa mới giải phóng và biên giới Việt Nam - Campuchia đang thực sự trở nên nóng bỏng bởi cuộc chiến tranh do bè lũ Pônpốt gây ra. Trong một đêm giữa cái lán dã chiến nơi vùng biên ải, sau một ngày cùng đồng đội chống trả quyết liệt với các đợt tấn công của địch, đã rất khuya mà Năm Tuấn vẫn không sao ngủ được. Anh cứ trằn trọc, thao thức, hết trở mình bên này lại lật mình sang bên kia bởi một câu hỏi cứ lặp đi lặp lại trong đầu. Vì sao những quả đạn pháo của bọn Pônpốt từ tít tận bên kia biên giới bắn sang lại rơi rất chính xác vào trận địa chốt của bộ đội ta? Bọn này dù có tài cán gì cũng không thể bắn trúng mục tiêu một cách tuyệt đối như vậy được. Phải chăng có ai đó sống trong khu vực biên phòng này đã làm gián điệp điều chỉnh pháo cho chúng? Sau một hồi suy nghĩ, Năm Tuấn cho rằng đây không còn là một câu hỏi, hay đơn thuần chỉ là một mối nghi ngờ nữa mà đã trở thành một vấn đề cấp bách cần điều tra làm rõ. Chắc chắn có ai đó đã làm việc này! Năm Tuấn khẳng định lại một lần nữa. Nhưng kẻ đó là ai, ở đâu, thì tất cả vẫn chỉ là bóng đêm bao phủ trước mắt anh. Năm Tuấn cố vắt óc ra để suy nghĩ, tìm tòi. Vậy rồi anh nghĩ tới một người. Đó là người đàn ông vừa vượt biên từ Campuchia trở về Việt Nam cách đây không lâu. Các chiến sỹ biên phòng đã bắt được anh ta trong một đêm tuần tra biên giới. Anh ta trạc độ ba mươi tuổi. Mặt mày phờ phạc, hốc hác; áo quần rách nát, bẩn thỉu. Người đàn ông tự khai tên là Cang, Việt kiều ở Campuchia. Anh ta nói rằng, anh ta theo gia đình sang bên ấy sinh sống từ trước năm bảy lăm. Nay, ở Campuchia bọn Pônpốt đang thi hành chính sách diệt chủng, tàn sát đẫm máu đồng bào Khơme và Việt kiều ta. Anh ta sợ quá nên tìm cách trốn về nước. Năm Tuấn tự hỏi, liệu Cang trở về Việt Nam có đúng như anh ta khai không hay nhằm mục đích gì khác? Có thể những điều anh ta nói chỉ là dối trá để nhằm che đậy con người thật của anh ta chăng? Cả đêm ấy Năm Tuấn đã gần như thức trắng cho đến sáng. Lúc nào trước mắt anh cũng hiện lên hình bóng Cang với khuôn mặt phờ phạc và bộ quần áo rách nát.

 “Ai chớ Tư Cang thì tụi tui có lạ chi! Anh muốn biết về ảnh hả? Được thôi!”. Năm Bủng, một người dân cùng ấp với Cang nói với Năm Tuấn rồi kể về Cang cho anh nghe. Tư Cang tên thật là Xixănđon. Cha anh ta là người Khơme, mẹ là người Việt Nam. Hồi chế độ cũ, Tư Cang rất nổi tiếng với nghề đâm thuê chém mướn kiếm tiền. Cha Cang trong một lần rượu chè quá chén đã lỡ tay đánh chết vợ. Cang thù cha rồi từ mặt cha cắt đứt tình máu mủ. Anh ta thương mẹ nên đặt tên mình theo tiếng Việt và lấy họ mẹ. Trước bảy lăm không lâu, anh ta rời Việt Nam sang Campuchia sinh sống. Trong kháng chiến, kiều bào ta đã đoàn kết với nhân dân Campuchia chống lại kẻ thù chung, thì Cang, trái lại có cảm tình với địch. Cứ dăm bữa, nửa tháng anh ta lại đi Nôngpênh, Xoàiriêng, Xiêmriệp hay Côngpôngxưpư…một chuyến. Mục đích của những chuyến đi không ai rõ, chỉ biết rằng, sau mỗi lần trở về, Cang lại sống rất xa hoa, tiêu xài xả láng, có vẻ như rất sẵn tiền. Thường xuyên lui tới nhà Cang là những người xa lạ, chẳng ai biết ở đâu, làm gì. Tình cảm giữa kiều bào ta với Cang phai nhạt dần, không còn qua lại đùm bọc, giúp đỡ nhau như trước nữa. Năm bảy lăm, Pônpốt lên cầm quyền, thẳng tay tàn sát đồng bào Campuchia, đàn áp, xua đuổi Việt kiều ta về nước và gây ra cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước. Riêng Cang bị chúng bắt đưa đi đâu một thời gian rồi thả về. Năm Tuấn tự hỏi, phải chăng Cang đã bị bọn phản động dụ dỗ, mua chuộc và bây giờ chúng cho Cang về nước để thực hiện những âm mưu đen tối của chúng?

Con thuyền bỗng lắc mạnh một cái rồi nghiêng về một bên như có ai vừa bước lên. Năm Tuấn ngồi bật dậy nhìn ra. Đúng thế thật, có một người đang đi trên tấm ván gác từ bờ ra thuyền. Qua ánh sáng nhờn nhợt anh nhận ra người đang đi xuống là Hai Đỏm. Tại sao Hai Đỏm lại đến đây vào giờ này? Năm Tuấn đang phân vân nghĩ ngợi thì Hai Đỏm đã nhảy phóc lên thuyền, đứng như pho tượng trước mặt anh. Tay Hai Đỏm cầm một con dao dài sáng loáng. Như có linh tính mách bảo điều chẳng lành, Năm Tuấn lùi lại phía sau. Tim anh đập rộn lên như muốn vỡ tung lồng ngực. Anh loay hoay tìm một cái gì đó nhưng không có và cũng không kịp nữa rồi. Bỗng có tiếng cười xòa: “Tìm chi vậy anh Hai?”. Hai Đỏm hỏi rồi ngồi xuống khoang thuyền, gác con dao lên hai đầu gối. Năm Tuấn nhìn Hai Đỏm ậm ự trong cổ không biết trả lời sao. “Bộ lạ nhà không ngủ được hay sao hả anh Năm? Tui đi coi đìa, ngang qua nhòm vô, thấy anh cứ trở mình trở mẩy hoài nên ghé lại định rủ anh qua nhà lai rai vài xị cho đỡ buồn”. Thật hú vía! Thế mà ngỡ thằng cha này đêm hôm mò xuống đây để trả thù chuyện năm xưa. Hai Đỏm nói tiếp: “Đã mất công từ ngoài ấy vô thì cũng nên đi đây đi đó một lát cho vui…”. “Nhất định tôi sẽ ghé thăm anh chị và các cháu. Ta đợi đến sáng đi anh!”. Năm Tuấn nói. “Vậy cũng được! Thôi, anh cố ngủ đi một lúc, tui đi đây!”. Hai Đỏm chào Năm Tuấn rồi bước về phía mui thuyền. Nhoáng một cái bóng anh ta đã mất hút trong màn đêm.

Càng về khuya gió trên sông Hậu càng lồng lộng, con thuyền càng lắc lư mạnh hơn. Năm Tuấn không tài nào ngủ lại được nữa. Anh cố làm mọi cách vẫn không sao ngủ được. Kể từ lúc gặp Hai Đỏm, tâm trí anh như lúc nào cũng dồn hết về anh ta. Rồi cả hình bóng Tư Cang, một con người đầy mưu mô quỷ quyệt của mấy mươi năm trước cứ lởn vởn trước mắt anh. Năm Tuấn nhớ tới ngày ấy, ngày mà anh cùng đồng đội quyết ra tay để vạch trần cho bằng được con người thật của Tư Cang và đồng bọn, trong đó có Hai Đỏm, một tay chân đắc lực của hắn.

Hôm ấy là một ngày bình lặng, không gian im ắng tưởng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Không có tiếng súng. Không có cảnh chết chóc. Không có những trận tấn công hay nã pháo của cả hai bên. Tất cả im ắng đến đáng sợ. Đó đây trên bầu trời trong xanh đã lại thấy thấp thoáng những cánh chim bay lượn. Sang đến ngày thứ hai, thứ ba cũng vậy. Thế rồi bước sang ngày thứ tư, mới sáng sớm tinh mơ, từ bên kia biên giới bỗng rộ lên lên một loạt tiếng nổ đầu nòng. Sau đó là tiếng gió rít như xé vải trên đầu và một loạt tiếng nổ của các loại pháo, cối. Mặt đất ầm ầm rung chuyển. Tiếng nổ càng lúc càng dày đặc, càng lúc càng dập dồn. Cả một vùng biên cương chìm ngập trong khói lửa.

Đang trên đường làm nhiệm vụ thì Năm Tuấn gặp pháo. Tiếng nổ như vây lấy anh. Năm Tuấn phải tạm lánh vào căn hầm bên đường. Chợt nghĩ sao anh nhảy ra khỏi nơi ẩn nấp rồi cứ thế lao mình băng băng trên đường. Khói lửa trùm lấy anh. Mảnh đạn bay vèo vèo quanh anh. Mặc! Năm Tuấn như không còn hay biết gì nữa, không còn lo sợ gì nữa. Điều anh nghĩ đến lúc này là phải bằng mọi giá đến được nhà Tư Cang. Phải đến ngay bây giờ. Phải đến ngay trong lúc pháo, cối của địch chưa kịp dừng lại. Nghĩ thế và anh vẫn băng băng trên đường. Một quả pháo nổ gần làm anh bị thương nhẹ ở tay. Năm Tuấn giữ chặt lấy vết thương và vẫn không dừng lại. Nhưng khi anh đến được nhà Tư Cang thì pháo địch đã thôi bắn. Ngôi nhà vắng vẻ, cửa đóng kín. Phải một lúc Năm Tuấn mới thấy Tư Cang từ đâu đó chạy về. Mặt mũi anh ta mồ hôi mồ kê nhễ nhại, áo quần lấm bê bết bùn đất. Nhìn điệu bộ của Tư Cang, Năm Tuấn thấy anh ta có vẻ rất lúng túng. Để tránh sự ngờ vực, Năm Tuấn vội lên tiếng nói với Tư Cang rằng mình đang trên đường đi công tác thì trúng mảnh pháo phải vào đây xin mảnh vải để băng vết thương. Một phút chần chừ rồi Tư Cang cũng nhanh nhảu vào nhà lấy bông băng ra băng vết thương cho Năm Tuấn. Trong lúc Tư Cang lúi húi băng vết thương, Năm Tuấn đã tình cờ nhìn thấy ở túi quần sau của anh ta có dắt một khẩu súng ngắn loại col45 của Mỹ.

Vậy là rõ. Từ những thu thập về nhân thân kết hợp với những gì vừa thấy, Năm Tuấn đã có đủ cơ sở để khẳng định về con người thật của Tư Cang. Hắn chính là một tên gián điệp đã được tung về nước để hoạt động chống phá ta. Việc bắt giữ hắn có thể được tiến hành bất cứ lúc nào bởi lúc này hắn đã như con cá trong chậu. Điều quan trọng là cần tiếp tục điều tra để biết xem ngoài hắn ra còn có bọn tay chân nào nữa không? Và ngoài hoạt động điều chỉnh pháo bọn chúng còn làm những gì? Năm Tuấn báo cáo tình hình lên cấp trên và một chuyên án được thành lập. Chẳng bao lâu chân tướng phản dân hại nước của Cang đã dần dần lộ ra. Một lũ đàn em thân tín do Cang dụ dỗ, mua chuộc đi theo hắn cũng dần dần lộ ra.

Tư Cang được bọn quan thầy của chế độ Pônpốt và ngụy quyền Sài Gòn sống lưu vong cho trở về Việt Nam với hai mục đích là làm chỉ điểm điều chỉnh pháo và chắp nối với bọn phản cách mạng trong vùng. Cả hai việc được Cang song song thực hiện. Hắn đã trực tiếp nhiều lần dùng bộ đàm gọi pháo cối bắn vào các điểm chốt của bộ đội ta. Đồng thời hắn cũng đã dò la, móc nối được với một số phần tử xấu để sai khiến. Bọn này chủ yếu là các sỹ quan, binh lính của chế độ cũ hiện đang sinh sống tại các xã dọc biên giới. Do mặc cảm với quá khứ, lại chưa hòa nhập với cuộc sống hiện tại, nên khi được Cang ngon ngọt dụ dỗ chúng đã tỏ ra rất hăng hái. Trong số này phải kể đến Bảy Hàm và Hai Đỏm. Hàm và Đỏm trước đây từng là thủy quân lục chiến trong quân đội Sài Gòn. Từng nhiều năm theo đơn vị đóng quân ở khu vực biên giới nên rất thông thạo tình hình ở đây. Cả hai được Cang giao nhiệm vụ lôi kéo những thanh niên chậm tiến, những kẻ chán đời gia nhập tổ chức Tuổi Xanh đợi dịp sẽ nổi dậy chống phá cách mạng và gây rối trật tự trị an. Hàm và Đỏm đã tỏ ra khá tích cực trong công việc được giao. Chúng được Cang tin cậy nên chi tiền cho ăn uống, chơi bời thả cửa. “Các anh phải hết sức cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ. Tôi sẽ có trách nhiệm theo dõi báo cáo lên cấp trên. Các ổng đã hứa là không tiếc bất cứ phần thưởng nào đối với chúng ta, nếu chúng ta hoàn thành nhiệm vụ…”. Trong một bữa rượu Tư Cang đã nói với Hàm và Đỏm như vậy. Bảy Hàm mừng rỡ khoe với Cang là hắn vừa rủ thêm đươc hai người ra nhập tổ chức Tuổi Xanh. Và hắn cũng không quên nhắc đến một người thứ ba mà hắn cho rằng người này cho đến nay vẫn đang lưỡng lự, chần chừ, chưa chịu nhận lời. Tư Cang nghe vậy thì gầm lên chửi rủa, quát tháo một lúc, rồi ngay đêm ấy hắn ra lệnh cho Hàm và Đỏm đi theo hắn.

Đêm ấy, trong một ngôi nhà sàn nhỏ nằm ven thị trấn biên giới, gia đình Út Tam đã hoàn toàn yên tĩnh trong một buổi tối hạnh phúc. Chị vợ vừa mới chợp mắt và anh chồng thì còn đang thao thức bởi một điều khiến anh phải trằn trọc suy nghĩ. Mấy ngày nay anh chẳng còn tâm trí đâu mà làm việc. Không nghĩ đến thì thôi, chứ nghĩ đến anh lại thấy lo lắng, bất an mà không biết phải giãi bày cùng ai. Thì ra Tư Cang sau bao năm lang bạt xứ người, nay trở về nước với mưu đồ đen tối. Tụi thằng Hàm, thằng Đỏm đã theo Cang, sa chân vào con đường tội lỗi, nhúng tay vào việc xấu. Chúng nó trước đây từng là đồng ngũ với mình, rồi khi giải phóng, cùng đi học tập cải tạo, cùng được tha bổng cho trở về làm ăn lương thiện. Sao chúng nỡ lòng quay ngoắt một trăm tám mươi độ, tiếp tục dấn thân trở lại con đường xấu xa một thời ấy. Chúng lại còn rủ mình đi theo chúng với những hứa hẹn viễn vông nữa chớ! Mình không những không đồng ý mà còn phản đối quyết liệt. Nhất định chúng sẽ không để mình yên. Bằng cách này cách khác, chúng sẽ gây khó dễ, thậm chí trả thù mình. Mình phải làm gì đây? Không lẽ biết mà đành làm ngơ để tụi nó lộng hành, tiếp tục gây tội ác. Thôi, không suy nghĩ gì nữa. Ngay ngày mai phải tìm gặp các anh bộ đội biên phòng nói ra sự thật này. Nghĩ tới đó Út Tam ngủ thiếp đi.

Bỗng có tiếng gõ cửa. Tiếng gõ dập dồn, gấp gáp. Cả hai vợ chồng Út Tam cùng giật mình thức dậy. Chị vợ thì thầm vào tai chồng: “Đêm hôm khuya khoắt ai đến đây làm chi vậy? Anh ra coi thử!”. Nghe lời vợ, Út Tam lồm cồm ngồi dậy, chui ra khỏi mùng rồi đi về phía cửa. Bên ngoài trăng sáng như ban ngày. Anh nghe có tiếng gọi tên anh. Út Tam nhận ra người gọi mình là Bảy Hàm nên bực bội nói: “Tui đã trả lời anh mấy lần rồi, sao anh không để tui yên mà quấy rầy chi hoài vậy? Anh về đi, khuya rồi, để tui ngủ!”. Bên ngoài vẫn tiếng Hàm van nài: “Thì tui đến đây đâu chỉ vì chuyện ấy…”. Tuy chần chừ, nhưng cuối cùng Út Tam cũng mở cửa, thong thả bước xuống cầu thang. Như chỉ chờ có thế. Bên cạnh cửa, Tư Cang nép sẵn vung dao giáng xuống. Út Tam chỉ kịp đưa hai tay lên đầu chới với một lúc rồi ngã gục xuống, lăn từ trên cầu thang xuống đất, không kêu được một tiếng. Trong nhà chị vợ hỏi to: “Anh Tam, anh làm đổ cái gì vậy?”. Rồi chị vùng dậy chạy ra ngoài sân. Qua ánh trăng vằng vặc chị thấy có mấy người vừa từ nhà chị bỏ chạy về phía biên giới. Và ở dưới đất chồng chị đang nằm im lìm, bất động. Chị ôm lấy chồng lay gọi. Nhưng Út Tam đã chết!

Vụ giết người ngay trong đêm đó được cơ sở phát hiện báo ngay cho Năm Tuấn. Nắm chắc tình hình là không ai khác ngoài Tư Cang và đồng bọn gây nên vụ án, Năm Tuấn trình bày ý kiến với cấp trên và xin chỉ thị hành động. Kế hoạch được triển khai nhanh chóng và bí mật. Chỉ sau đó vài chục phút, Bảy Hàm đã bị bắt ngay tại nhà hắn khi hắn vừa lững thững cầm con dao dính máu trở về. Cùng lúc ấy Hai Đỏm có việc đến nhà Hàm. Đỏm vừa đến đầu ngõ thì hoảng hốt bỏ chạy khi nắm được sự việc xảy ra. Hắn ba chân bốn cẳng phóng một mạch đến nhà Tư Cang. Cang nghe Đỏm trình bày thì bực bội gầm gừ: “Vậy là lộ hết rồi! Thôi, nhanh nhanh thu xếp tẩu thoát!”. Đỏm run rẩy: “Tôi…tôi có đi không?”. “Chú mày muốn chết thì ở lại!”. “Nhưng tôi không giết người”. “Không giết người…- Cang cười gằn - Chỉ riêng việc chú mày tham gia vào tổ chức Tuổi Xanh cũng đủ để người ta treo cổ chú mày rồi”. Thế là Hai Đỏm đành phải xin đi theo. Tư Cang lên đạn khẩu súng ngắn rồi cùng Hai Đỏm chạy đến một cái cầu sắt. Cang chui xuống gầm cầu, lục trong đám cỏ khô lôi ra một cái máy PRC25 giao cho Đỏm. “Chú mày mang dùm tôi!”. Nói xong, Cang hùng hổ đi trước. Đỏm mặt mày ủ rủ theo sau. Cả hai hướng về phía biên giới. Khi đến bờ sông Bình Di, con sông ranh giới giữa hai nước, cả hai chuẩn bị lội xuống thì từ ba phía ánh đèn pin lóe sáng. Nhiều họng súng chĩa thẳng vào người chúng. Tiếp đó là một giọng hô dõng dạc: “Tất cả đứng im! Các anh đã bị bắt!”. Tư Cang ngoan cố chụp lấy súng ở thắt lưng chĩa về phía trước. Nhưng hắn đã không kịp bóp cò. Cạnh đó, Năm Tuấn đã lao tới, giáng một cú đá vào người hắn. Tư Cang ngã sấp xuống làm khẩu súng trong tay văng về một bên. Riêng Hai Đỏm thì sợ quá khóc róng lên. Đêm ấy, ta lần lượt quét sạch băng nhóm phản cách mạng do Tư Cang cầm đầu. Cái gọi là tổ chức Tuổi Xanh đã hoàn toàn bị xóa sổ…

Lại một đêm nữa trôi qua nơi vùng sông nước miền tây. Cũng như đêm đầu tiên khi mới đến đây, Năm Tuấn vẫn không sao dỗ được giấc ngủ. Anh cứ trằn trọc, thao thức hoài. Chắc hẳn sau mấy mươi năm xa cách, giờ trở lại nơi vùng biên cương, gặp lại cảnh cũ người xưa, với bao buồn vui, kỷ niệm, trong lòng anh có quá nhiều những bồi hồi, cảm xúc. Hơn hai mươi năm đã trôi qua, đất và người nơi miền biên ải này đã hoàn toàn đổi khác. Chẳng còn gì là dấu tích của một thời chiến tranh. Cuộc sống đang từng ngày đổi thay. Cảnh vật cũng trở nên tươi đẹp, đáng yêu biết nhường nào. Anh mừng cho tất cả đồng đội và bạn bè cũ của anh. Mỗi người mỗi hoàn cảnh, nhưng tất cả đều làm ăn phát đạt. Có người còn trở nên giàu có nhờ chí thú làm ăn. Anh mừng cả cho Hai Đỏm, người một thời lầm đường lạc lối, đứng ở bên kia chiến tuyến. Thật đúng là quả đất quay tròn! Không hẹn mà Năm Tuấn đã gặp lại Hai Đỏm. Suốt cả sáng nay anh đã dành trọn vẹn thời gian đến thăm nhà Hai Đỏm. Trong cuộc hội ngộ bất ngờ này cả hai đã gượng gạo ôn lại những kỷ niệm của một thời. Câu chuyện có lúc trở nên rời rạc, buồn tẻ, nhưng ai cũng muốn trút hết nỗi lòng mình. Năm Tuấn nhớ mãi câu nói của Hai Đỏm khi chia tay ra về: “Sau vụ ấy, Tư Cang phải chịu án tử hình. Tôi và những người khác thì chịu mức án từ năm năm cho tới hai mươi năm. Tôi đã sáng mắt ra rất nhiều sau lần vấp ngã ấy. Có lẽ hồi ấy do tuổi mình còn trẻ, nên nông nổi, không kịp nghĩ suy. Và bây giờ thì tôi đã có thể nói rằng, chỉ có ai ngốc nghếch, ngu si thì mới đi ngược lại con đường mà dân tộc đang đi…”. Năm Tuấn đã rất ngạc nhiên và vui mừng khi được biết Hai Đỏm bây giờ đã là một triệu phú nuôi cá tra, cá basa trên sông Hậu. Anh có tới hai bè nuôi cá mỗi vụ cho thu nhập hàng trăm triệu đồng từ hai loại cá có giá trị xuất khẩu này. Anh lại càng ngạc nhiên hơn khi nghe Hai Đỏm nói về Ba Đảm: “Anh ấy ra tù sau tôi ba năm, nhưng nhờ chịu khó làm ăn, nên bây giờ cũng có một vườn cây ăn quả vài trăm gốc cho thu nhập khá cao hàng năm. Anh ấy còn sắm cả máy cày, máy gặt đập liên hoàn làm dịch vụ cho bà con trong vùng khi mùa màng, thời vụ đến. Đặc biệt, Ba Đảm có hai con, một gái một trai, học rất giỏi, năm rồi cả hai đứa đều là thủ khoa của hai trường đại học trong kỳ thi tốt nghiệp ra trường…”.

Càng về khuya gió trên sông Hậu càng trở nên lồng lộng hơn, phóng túng hơn. Con thuyền dập dềnh, lắc lư nhè nhẹ như một cánh võng. Mảnh trăng cuối tháng giờ mới chịu ló mình ra khỏi đám mây. Bầu trời đang nhờ nhờ bỗng vụt sáng. Những con sóng lăn tăn chấp chới, long lanh vô vàn những ánh sao khuya. Đêm biên cương vùng sông nước miền tây thật mênh mông, sâu thẳm.

N.N.C 
�n  s �s ò da diết nhớ nhung quá. Những thằng lính không biết làm thơ như mình chỉ muốn khóc.

 

Ngày... Cả tiểu đội đã trở lại dòng sông Thạch Hãn. Đêm trời hơi lạnh. Mùa này nước lớn, Tàu địch đậu chềnh ềnh, đen sì như những con cá sấu khổng lồ ngoài cửa sông. Trên boong tàu đèn pha bật sáng trưng, chiếu xuống nước loang loáng. Bọn lính đứng trên boong lố nhố, chốc chốc lại chúc nòng súng AR 15 bắn từng đợt xuống sông. Một lúc sau mấy thằng nữa bê cả thùng lựu đạn, rút chốt ném từng quả xuống nước. Nước tung lên,  những tiếng ùng ục liên hồi. Sắp khuya rồi. Địch bắn pháo sáng nhiều quá. Không thể tiếp cận địch theo đội hình được, đành phải thực hiện phương án hai lợi dụng những cụm lục bình trôi, mình bơi đứng cách tàu năm mét... ba mét nữa. Bằng linh tính mình lặn xuống sâu, tránh qua bên phải. Quả nhiên mấy viên đạn nổ lụp bụp... Đám lục bình tơi tả, nổi dập dềnh theo chiều nước trôi. Chắc tụi lính đố nhau bắn trúng, hay đã thành thói quen bắn bảo vệ từ xa. Mình ôm khối thuốc nổ áp sát mạn tàu, lần đồng hồ hẹn giờ. Chắc ở phía đầu tầu, thằng Tân đã sẵn sàng... Loạt lựu đạn nghe xa hơn... Sờ tay vào bánh lái, đặt khối thuốc nổ kiểm tra thật kỹ rồi trườn mình ra xa. Bụp, bụp. Đạn vẫn ghim xuống nước. Đau nhói trên vai. Đau quá! Mình không được dừng lại. Bơi tiếp, nước ngấm vào người lạnh ngắt. Một quầng sáng... Một tiếng nổ dữ dội... Thày ơi...

Ngày...Hơ May đẩy nắp hầm chui xuống: “Anh đã khá rồi đấy”. “ừ! Cho anh tìm về đơn vị”. “Không được đâu. Pá con em chăm anh khỏi hẳn đã”. “Em đừng lo, đâu phải lần đầu anh bị thương. Lần trước, đã tưởng làm mồi cho cá ở sông Thạch Hãn rồi. Ai ngờ... lại có thêm lần này nữa... Để được gặp em...” Em nằm xuống cạnh mình. Thịt da con gái nồng nàn quá. Em áp mặt vào bên vai không bị thương của mình... Mình thấy khao khát biết chừng nào. Rồi hai đứa đã lịm đi, tan ra, miên man và nhẹ bỗng...

Tôi không thể nào đọc tiếp được nữa. Tôi khóc, quay sang thấy bác Hạnh khóc, mẹ tôi khóc, anh bộ đội khóc, những người hàng xóm ngồi nghe cũng khóc.

Một lúc sau bác Hạnh thì thầm khấn: “Hân con ơi! Thày có phúc, họ Vũ này có phúc thì con hiện về. Con hãy bảo thày con đang nằm ở đâu? Con có để lại giọt máu nào không thì hãy chỉ đường dẫn lối cho nó tìm về... Con...ơ...ơ...ơi”.

Bảy năm sau. Bác Hạnh tôi đã già thêm nhiều. Tóc thày, mẹ tôi cũng đã bạc. Thày tôi đã về nghỉ hưu. Ngôi nhà từ đường dòng họ Vũ được sửa lại khang trang và sáng sủa. Khu vườn thiêng cây cối um tùm, cành lá giao nhau thành tán rộng. Cây nhãn góc vườn nở đầy hoa. Ong bay về dập dờn làm mật.

Vào một buổi chiều cuối xuân. Trên con đê ngoằn nghèo từ đường quốc lộ chạy về làng. Người ta thấy có hai người đàn bà mình quấn xà rông, cổ và tay đeo vòng bạc, hai hàng khuy bạc lấp lánh, búi tóc hoe vàng, vấn cao tận đỉnh đầu. Vẻ mặt họ ngơ ngác, đôi mắt đăm đăm hướng về làng. Theo sau họ một cậu bé trai tóc xoăn tít, vầng trán dô dô bướng bỉnh. Cậu vừa đi, vừa nhảy chân sáo miệng cười líu lo...

Họ hỏi thăm về làng Bãi Trữ nhỏ bé bên sông Hoàng Long.

 

 

V.M.N 

 

Nguyễn Ngọc Chiến
Bài viết đăng trên Tạp chí Cửa Việt số 199 tháng 04/2011

Mới nhất

Hòn ngọc Bali giữa biển xanh

36 Phút trước

 Người Việt đi du lịch Bali, hầu như chỉ biết đến những bãi tắm xa

Tự do xanh quá, mênh mông quá

14 Giờ trước

Thơ ca không phải là ghi chép lại lịch sử nhưng lịch sử qua thơ mang một vẻ đẹp bất ngờ và độc đáo không thể hình dung hết. Tuy nhiên, để làm được điều đó, thi sĩ phải thực sự tài năng và có cơ hội tiếp cận được hiện thực lộng lẫy trong những thời khắc có một không hai của lịch sử. Hai mươi năm đánh trận trường kỳ, cả dân tộc không đêm nào ngủ được, cả dân tộc hành quân ra trận, cả dân tộc đội triệu tấn bom để hái mặt trời và có ngày Chiến thắng 30 tháng tư năm 1975, cũng là ngày mở ra cánh cửa hòa bình, thống nhất non sông cho đất nước.

Trên đất đồi đã thôi thuốc súng

28/04/2024 lúc 16:38

Để thấy sự hồi sinh của một vùng đất, đôi khi phải làm khách vãng lai quan sát. Nhận ra

Mùa hoa chêng đỏ

28/04/2024 lúc 16:33

Chưa bao giờ chêng nghĩ mình là một loài hoa được nâng niu, chiều chuộng, cũng không mơ được

Trận pháo kích Cứ điểm 241

28/04/2024 lúc 16:31

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn đã sụp đổ, miền

Tạp chí số cũ
Câu chuyện du lịch
tư tưởng Hồ Chí Minh

Thời tiết

Quảng Trị

Hiện tại

26°

Mưa

01/05

25° - 27°

Mưa

02/05

24° - 26°

Mưa

03/05

23° - 26°

Mưa

Nguồn: Weathers Underground