Năm ấy, làng được mùa lúa. Đồng còn mảng vàng mảng xanh mà trong nhà lúa đã ngộn ngốt. Lúa xếp dọc thềm nhỏn chạm mái tranh, mái ngói, lúa xây thành cồn ngoài vườn. Đặt chân xuống đâu cũng giẫm lên vỏ lúa ram ráp. Gió Lào mang bụi trắng phủ lên da thịt người, ngứa ngáy không chịu nổi. Chị dâu tôi bảo: "Thôi, chú nghỉ tắm táp đi. Đêm nay nước cường". Tôi cùng anh trai và chị dâu trục lúa giữa sân - cái sân gạch có trước khi tôi sinh. Giọng chị dâu tôi nghe xa xôi như tiếng vọngv chắc vì tiếng lúa lào xào dưới trục, tiếng gió xào xạc trong vườn chè. Anh tôi nói: "Vẽ chuyện! Ra giếng mà dội, nước trong vắt, mát lạnh". Rồi anh lật cái mo cau đệm dưới dây kéo trục nơi vai, lầm bầm câu gì đó nữa tôi nghe không rõ. Tôi theo chị dâu mấy bước nữa rồi rút nạng tre khỏi giằng trục bước ra ngoài vạt lúa quây tròn dày vài gang tay. Tôi cảm thấy người nhẹ tênh, chung chiêng, còn mọi vật trước mắt: ngôi nhà, những cây cau, ngọn đèn soi treo lơ lửng trên mái hiên thì lảo đảo, lúc mờ lúc rõ.
Tôi ngồi xuống sân, nhắm mắt lại. Hơi đất ngai ngái cồn cào gan ruột. Tiếng giằng tre nghiến nơi cốt trục cót két. Tôi đứng dậy đi vội ra ngõ. Đêm rộng rênh, dịu dàng. Trăng vàng rượi chảy lênh láng trên lá cây. Cánh đồng trước làng bằng phẳng, mất hút vào khoảng không mờ đục. Lòng tôi bỗng bồi hồi. Mười bảy năm sống với cánh đồng này, tôi quen từng bờ ruộng, hàng cây bên sông, đến những cái hang cua đồng thẳng, nghẹo và mùi bùn, mùi lúa... một cái gì thân thiết, êm đềm dào lên trong tôi.
- Ai? - Tiếng hỏi khô khốc khiến tôi sững người.
Tôi quay về phía có tiếng hỏi, bắt gặp một bóng đen lừng lững, một mũi súng cũng màu đen chĩa thẳng vào ngực tôi.
- Tôi... - Tôi vội vã trả lời.
- Tôi là ai?
- Nghĩa... Em anh Thắng, chị Ngàn.
Mũi súng rơi thõng xuống. Một giọng đàn ông ấm áp:
- Em chị Ngàn à? Tôi tưởng bọn gặt trộm lúa.
- Còn có trộm hả anh? - Tôi hỏi.
- Chi chẳng có nữa là trộm... Cậu về bao giờ?
- Vài bữa rồi.
- Tôi là Cường làm bảo vệ đồng lúa. Cậu biết tôi chứ?
- Biết quá chứ ạ.
Anh kéo lê báng súng trên mặt đường đi về phía bến sông. Tôi theo anh. Không gian tĩnh lặng nghe rõ tiếng cào cào đập cánh tanh tách dưới ruộng lúa và tiếng sóng nguôi ngoai trong dãy dứa dại ngâm nửa thân trong nước. Ánh trăng run rẩy trên lá đa. Tôi và anh ngồi dưới gốc đa, trên bãi cỏ ẩm ướt. Vỏ đa sần sùi sau lưng chúng tôi. Gió nhẹ như phẩy lông gà. Tôi không nom rõ mặt anh Cường, chỉ thấy một vạt đen mờ và hai đốm sáng của đôi mắt. Hồi tôi còn cởi truồng, anh đã làm Bí thư Đoàn. Anh mặc quần xanh áo trắng, bao giờ cũng phành phạch bên hông cái xắc cốt màu vàng. Anh thường chơi với bọn trẻ chúng tôi, nhất là trò tìm bần chín, ăn với lá lăng. Thuở ấy, dọc bờ sông Nghèn quê tôi, bần như rừng. Quả bần tròn, dẹt, lá lăng xanh nõn lẫn trong lá duối, nhai trộn hai thứ vào nhau cái mùi vị thật tuyệt: vừa chua, vừa ngọt, vừa có chút nhẫn đắng. Rồi tôi lên phố huyện học cấp ba, anh đi bộ đội...
- Khục! Kh...ục! Kh...ục!... - anh ho, người uốn cong. Là bác sĩ, tôi biết phổi anh bị hỏng hóc.
- Phổi anh có chuyện rồi - Tôi nói - Anh phải thương lấy nó.
- Thương đếch gì nó, cậu. Nó làm tình làm tội tôi đủ điều. Cậu ngẫm xem, tôi làm bảo vệ mà thỉnh thoảng nó lại kêu khục khục thì có khác chi bảo, em ở bụi này.
- Sao anh không xin nghỉ, làm việc khác.
- Ai thay cho mà nghỉ. Cậu tính, suốt ngày suốt đêm mưa nắng, nóng rét cứ phải ở ngoài đồng thì ai thích. Tôi đã nhận nhiệm vụ trước bà con, tôi phải làm tròn. Hồi ở bộ đội bao giờ tôi cũng hoàn thành nhiệm vụ.
- Chiến tranh khác. Vả, hồi ấy anh chưa bị bệnh. Còn hiện nay chắc gì anh đã hoàn thành cái gọi là nhiệm vụ ấy.
- Có thể là thế - Anh nói, giọng đượm buồn.
Tôi lái câu chuyện sang hướng khác:
- Đêm nay nước ròng mà chị Ngàn bảo nước cường.
Anh đưa tay xát xát trên ngực trái, một lúc sau nói:
- Chị Ngàn thường bảo là sông nước cường.
Giọng anh xa xôi. Tôi không hiểu anh định nói gì, nhưng không dám hỏi.
- Ờ… Xưa ở đây nhiều bần. Hoa bần đỏ màu máu. Còn quả bần chín ăn với lá lăng…
Tôi nghe anh chép miệng. Lát sau anh cất giọng hát, buồn não nùng:
- “Ngọt chua gói giữa ruột bần. Lá lăng em đã hái để dành chờ anh…” Giờ thì chẳng còn bần, chẳng còn chua với ngọt. Người ta chặt làm củi hết rồi.
Giọng anh khác lạ, dài lê thê và run rẩy, như khóc. Lát sau anh chống tay vào đầu gối đứng dậy, khoác quai súng lên vai.
- Cậu tắm đi. Lâu nay tôi ghét tắm đêm…
Nói xong anh đi về phía đồng. Bóng anh nhỏ dần, nhòa vào bóng đêm.
Tôi cởi bỏ áo quần, nhảy ào xuống sông. Nước vỡ ra, tung tóe vàng. Tất cả chung quanh tôi: cây cối trong bóng đêm hiện lên những hình thù kỳ dị, ngôi sao hôm leo lét, cây đa im phắc như một tảng đá, tiếng cá mương chim chíp… Thảy, trở nên huyền bí. Một nỗi sợ hãi mơ hồ ám ảnh tôi. Tôi vội vã leo lên bậc đá thứ hai, bậc đá thứ nhất. Đã thấy đốm lửa lấp lóe trong làng, lúc xa xôi, lúc gần gặn.
Tôi về đến ngõ, bỗng nghe trong sân tiếng quát tháo của anh tôi. Rồi tiếng chị dâu tôi khóc. Tiếng loảng xoảng của những vật bằng kim loại mỏng va nhau. Anh tôi đang đi tới đi lui trên vạt lúa trục dở.
- Tao sẽ giết mày – Anh tôi rít lên.
Chị dâu tôi nói:
- Tôi lạy anh. Để con nó nói đầu đuôi xuôi ngược đã.
Tiếng anh tôi:
- Vậy là rõ. Đêm nay nữa là rõ.
Tiếng một bà già:
- Con Thảo đã nói rồi còn chi. Rằng, ông ta đã ôm nó. Ôm nó là để hiếp nó chứ ôm nó để làm chi. Trời đất, đảo điên lên cả rồi.
Tiếng anh tôi:
- Hắn đã làm gì mày chưa! Câm hả?
Cháu tôi, con Thảo đang gục đầu vào lòng mẹ. Vai nó rung lên. Nó khóc. Tiếng khóc mắc nghẹn trong cổ nghe ưng ức. Năm nay nó tròn mười sáu tuổi, người mảnh mai. Dáng vẻ và khuôn mặt giống mẹ như hai giọt nước.
Chị Ngàn vuốt dọc lưng con gái, nói:
- Con bình tĩnh, kể cho mẹ nghe nào.
Con Thảo từ từ ngẩng đầu. Khuôn mặt nó nhòe nước mắt.
- Họp xong, con đi tắt đồng lúa về. Đến cồn Mục Đồng thì gặp ông ấy. Ông ấy bảo con ngồi xuống cho ông ấy hỏi chuyện. Con ngồi. Ông ấy cứ im thít. Con đứng dậy, ông ấy nói vội vàng: “Thảo ơi, mẹ Ngàn ở nhà à?” Con nói “Dạ”. Ông ấy nhìn chăm chăm vào mặt con. Rồi ông ấy vứt súng xuống đất, ôm choàng lấy con. Con giãy giụa, con cắn vào cổ ông ấy. Ông ấy buông con ra.
- Chỉ thế - chị Ngàn nói - sao con lại cắn người ta?
Anh tôi giậm chân vào đống lúa nơi góc sân:
- Lại thế nữa. Lại, sao lại cắn người ta. Tao sẽ hỏi tội nó. Tao sẽ giần xương nó ra. Cái thằng Cường khốn kiếp.
Anh tôi giật cái nạng chống rèm, chạy ra cửa, xô dạt tôi vào dãy chè Mạn Hảo.
Chị Ngàn kêu lên hốt hoảng:
- Ai đó giữ anh ấy lại – Nhận ra tôi chị đấm thùm thụp vào ngực tôi – Chú Nghĩa, giữ anh Thắng cho chị. Anh Cường không có tội gì đâu. Đi! Đi!
Tôi đuổi theo anh tôi. Đêm vỡ lào xào. Lúa quất ràn rạt vào anh tôi, vào tôi. Anh tôi trước, tôi sau, chạy về phía có tiếng ho khùng khục.
Tôi đã không ngăn được cơn giận điên dại của anh trai. Lúc tôi đến cồn Mục Đồng anh Cường đã bị đánh nhũn người. Cái nạng chống rèm nằm cạnh một ngôi mộ sè sè. Mặt anh Cường nhễu máu. Máu lóe sáng trong ánh trăng. Tôi ôm choàng lấy anh. Rồi bế xốc anh lên, chạy đến trạm xá xã, anh được chuyển ngay xuống bệnh viện huyện. Hai ngày sau, người ta cho anh ra viện, vì không thể cứu nổi anh nữa.
Đưa anh về quê có bốn người. Đi đầu là một ông thiếu tá thời đánh Pháp. Hai người thanh niên và chị Bí thư Chi bộ làng tôi. Cái dáng lòng khòng, cái đầu cúi gục của ông thiếu tá, cái cáng anh Cường nằm phủ tấm chăn chiên màu tro, những bước chân gần như rón rén và tiếng gió u u, rền rĩ… gợi lên cho tôi ý nghĩ về một đám tang. Mãi quá chiều chúng tôi mới đưa được anh Cường tới nhà. Một ngôi nhà nhỏ, tường vôi, lợp ngói. Ngói còn đỏ rói. Trong nhà trống trải, ẩm mốc và lành lạnh. Ngoài cái giường cái tủ một cánh, bộ bàn ghế cũ kỹ, chẳng thấy gì nữa. Ông thiếu tá đưa tay áo lau nước mắt. Chị Bí thư Chi bộ buồn thiu nói thì thào một mình nơi góc nhà.
Anh tỉnh táo cảm ơn mọi người rồi bảo tôi:
- Cậu ở với tôi… Là bác sĩ cậu biết được mệnh hệ con người. Vả, tôi có câu chuyện muốn thưa cùng cậu. Giọng anh van vỉ, nhưng rành rọt.
Tôi ngồi xuống mép giường, nắm chặt bàn tay anh, những ngón tay gầy nổi cộm xương. Anh cười với tôi, nụ cười méo xệch, chắc vì một cơn đau nào đó trong người. Khuôn mặt anh hồng lên một chút. Trong đôi mắt to, đồng tử màu nâu nằm lặng im, dâng đầy nước.
- Tôi nghe anh đây – Tôi nói.
Anh hỏi:
- Cậu có tin tôi không?
Quả là tôi không biết anh hỏi tôi tin cái gì và cớ gì để tin hay không, nhưng nghĩ rằng, anh sắp chết, thì thật, giả, trái, phải, có, không phỗng có ích gì, bèn nói:
- Tôi tin anh.
Anh miết ngón tay lên trán, nói:
- Đêm hôm ấy…
- Ờ, tôi biết không có chuyện ấy, cái chuyện anh và cháu Thảo – Tôi vội ngắt lời anh.
Anh chậm chạp nói:
- Có đấy. Có chuyện tôi ôm con Thảo.
Tôi ngờ mình nghe nhầm. Nói cách khác, ý thức tôi nhận ra lời anh một cách khó khăn. Khoảnh khắc quên anh đang hấp hối, tôi gằn lên từng tiếng:
- Sao anh làm cái việc… như thế.
Anh khó nhọc lắc đầu. Nơi đôi môi tím tái phát ra những âm thanh rời rạc. Tôi cúi xuống, cố nghe lời anh trối trăn, nhưng không nghe nổi. Bàn tay anh quờ quạng trên mặt chiếu rồi bíu vào tôi. Một lát sau anh tắt thở. Những đường nhăn trên vầng trán, nơi khóe miệng vẫn rung động, ít nhất đấy là cảm giác của tôi.
* * *
Tôi lờ mờ thấy có chuyện gì đó dằng dịt giữa chị Ngàn, con Thảo và anh Cường. Mấy lần định hỏi chị Ngàn nhưng không tìm ra lúc thuận. Anh Thắng bị giam ở huyện. Chị Ngàn chạy đi chạy về, mặt mũi phờ phạc, người xiêu vẹo. Nhà cửa lúa ngồn ngộn, lúa vung vãi. Chẳng ai dọn dẹp cho. Con Thảo ôm mặt còng lưng tôm trên giường khóc rấm rứt. Không khí buồn hiu hắt. Vừa hết thời gian nghỉ phép, tôi phải về cơ quan. Tôi đi, mang theo khuôn mặt anh trai tôi lầm lỳ, cau có. Gương mặt chị Ngàn thấm đẫm nỗi buồn lẫn lo lắng thảng thốt và một ám ảnh anh Cường lúc hấp hối. Hai tháng sau, tôi nhận được bức điện của chị Ngàn. Vỏn vẹn mấy chữ: “Ngày 24 Tòa xử anh Thắng chú về gấp”.
Tôi nhảy tàu, về đến nhà lúc mờ sáng ngày 23, chị Ngàn ra tận sân đón tôi. Chị bảo: “Có chú về chị vững dạ hơn”. Tôi và chị lên huyện ngay sáng đó. Lần đầu tiên, chị nói chuyện với tôi như nói với một người bạn:
… Thuở con gái chị có cái tật thích tắm đêm. Bến tắm của làng, đêm rất vắng và dày đặc bóng cây. Trong bóng cây mọi vật mờ ảo và mặt nước thì mịn màng như lụa, đẹp lắm. Sau ngày cưới, anh Thắng thường đi cùng chị. Chị xuống sông, ngâm mình trong nước, còn anh Thắng ngồi hút thuốc lá dưới gốc đa. Cứ thế được dăm bảy lần. Sau, anh Thắng bảo: “Ra giếng dội vài gàu nước là xong”. Chị đi một mình tắm một mình. Một hôm, anh Cường đột ngột chắn mặt chị ở bậc đá thứ nhất. Bậc đá rộng mỗi chiều non một mét, bằng phẳng. Chị xòe bàn tay che khuôn ngực trần. Anh nói: “Anh trốn đơn vị về để chào em. Mai anh vào B”. Chị líu ríu: “Về nhà… nói chuyện”. Anh làm một cử chỉ gì đó: “Không… Anh đi ngay bây giờ mà. Em để cho anh nói với em vài câu”. Chị lắc đầu: “Còn chi nữa mà nói. Mọi thứ hết cả rồi, hết vào bữa anh đi, vào bữa anh nói là anh không yêu tôi, rằng là tôi đừng chờ đợi anh, chẳng có ích gì, rằng là, tôi hãy lấy chồng”. “Anh đứt ruột mà nói thế Ngàn à. Anh sợ em khổ. Chiến tranh, sống, chết cách nhau mũi kim, anh không có gan ràng buộc em. Nay thì em đã có chồng anh tin em sẽ hạnh phúc, mong vậy”. Chị nói: “Đừng nói nữa. Chúc anh đi chân cứng đá mềm”. Anh nói: “Anh sẽ không quên được em”. Chị thấy hai bàn tay anh giật giật. Anh nói, gần lắm, hơi thở phả cả vào mặt chị: “Anh đã hai mươi bốn tuổi. Chưa hề được ôm đàn bà. Mai anh đi, có thể sẽ chết. Ba đứa đi cùng đợt với anh chết hai rồi. Anh xin em…”. Mọi thứ xẩy ra sau đó: Những lời nói, những hành động của anh, của chị nó cứ chồng chéo vào nhau, không thể kể lại được. Cơ mà… đêm ấy, ở bậc đá thứ nhất ấy, chị đã cho anh cái anh muốn. Mười tháng sau, con Thảo ra đời. Chị không biết con Thảo là giọt máu của ai. Nhưng chị cố tình nghĩ, con Thảo là con anh Thắng. Mọi thứ rối tung lên khi anh Cường xuất ngũ về làng. Bố mẹ và đứa em gái của anh đã chết bom. Anh ở một mình, lặng lẽ, âm thầm như một cái bóng. Rồi chẳng hiểu sao, anh xung phong làm bảo vệ cho hợp tác xã. Ngày liền đêm anh ở ngoài đồng không mông quạnh. Một lần anh đến chỗ chị gặt, lượm lúa cho chị và nói: “Cô có kể cho con Thảo nghe về tôi không?” Chị lau mồ hôi, nói “không…” Anh buồn bã: "Vậy, hay hơn". Chị nhìn anh, nói: "Anh Cường này, anh lấy vợ đi". Anh cười chua chát: "Có ai đổ điên đi vơ tôi làm chồng hở cô". Mắt chị cay xè. Nước mắt trộn mồ hôi rơi xuống lúa. Sau lần ấy, anh tìm mọi cách tránh chị, và tìm mọi cách gặp con Thảo. Anh Thắng biết chuyện, cáu kỉnh: "Nó chắc bị mảnh bom, viên đạn nào vào đầu phát điên mất rồi". Chị bảo: "Đừng nói thế, có tội". Anh Thắng cười khẩy: "Tội với chả tình. Cái mặt nó nhìn con Thảo như mắt chó nhìn thịt. Cô mà để con Thảo gặp nó thì liệu thần hồn". Chị tránh chồng, khóc một mình. Cho đến cái lần, anh Cường ôm con Thảo ở giữa đêm hôm khuya khoắt.
- Chú ạ, con Thảo là con anh Cường. - Đột ngột, chị nói. Rồi như kẻ kiệt sức chị rên rỉ - Trời ơi, cuộc đời này nó như một đống lúa mới trục xong, chắc, lép, trắng, xanh, to, nhỏ... có cả, lộn nhào.
Tôi đặt tay lên vai chị:
- Thôi, đừng tự làm khổ mình nữa, chị Ngàn ạ. Chuyện xảy ra đã mười bảy năm rồi còn gì.
- Nếu giờ chị không nói, anh Cường bị oan, vong linh anh ấy dưới kia sao mà thanh thản được.
Tôi chép miệng:
- Anh ấy chết rồi!
Chị lừ mắt nhìn tôi:
- Chú đừng nói thế. Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Cái bia miệng ở làng ta nó khiếp lắm.
Tôi buông giọng hỏi:
- Thế chị định sao?
- Mai, trước tòa chị sẽ nói chuyện này ra.
Tôi đứng sững lại:
- Chị điên rồi. Chị tính bảo vệ danh dự cho một người đã chết, người sống thì sao? Anh Thắng sẽ nghĩ gì về chuyện này? Anh ấy phải đi tù đã đủ đau rồi, thế mà chị định giáng cho anh ấy một đòn nữa ư? Còn cháu Thảo nữa... Nghĩ lại đi, chị Ngàn, chuyện của mười bảy năm trước, bươi lại làm gì.
Chị Ngàn im lặng. Đôi môi cắn chỉ của chị mím chặt. Cuối cùng thì chị nói, rành rọt từng tiếng:
- Chị đã nghĩ hàng chục năm nay, nghĩ kỹ khi anh Cường về làng.
Tôi vớt vát:
- Dù sao... Có lẽ... Không nói vẫn êm thấm hơn.
Chị Ngàn bảo:
- Chú đừng khuyên chị nữa.
Từ ấy cho đến hôm sau, lúc tòa tuyên án anh Thắng tám năm tù giam, tôi hầu như không nói với chị Ngàn một lời. Thâm tâm tôi giận chị. Lúc chị nói trước tòa, trước đám đông rằng, con Thảo là con anh Cường. Anh ấy ôm con Thảo là cái ôm của tình máu mủ, ruột rà, tôi thấy anh Thắng lảo đảo, mặt trắng bệch. Có lẽ lâu nay, sự thật ấy chỉ lờ mờ trong một hoài nghi của anh mà thôi. "Thế là thế!" - Anh nói một cách khó khăn.
Chị Ngàn nói: "Tha tội cho em". Anh Thắng bảo: "Chúng ta đều có tội với nhau". Tôi tưởng mọi sự dừng ở đó, bất ngờ anh Thắng nói: "Xin tòa cho tôi ly dị với vợ luôn". Đến lượt chị Ngàn lảo đảo. Lòng tôi nhói đau. Tôi thương chị Ngàn, thương anh Thắng, thương cháu Thảo, thương cho cái gia đình đang như một cái tổ chim rơi khỏi cành chống chếnh trong gió. Bất giác tôi nhớ tới câu hát của anh Cường, và một cái gì đó như chút niềm vui cho anh. Mãi về sau, khi bình tâm lại, tôi vẫn không tài nào hiểu được vì sao tôi lại nhớ câu hát, lại vui được vào lúc ấy.
* * *
Bốn năm sau, anh Thắng ra tù. Nhờ phấn đấu tốt anh được giảm án. Chị Ngàn kể, vợ chồng anh chị sống ấm êm, không ai nhắc đến chuyện ly hôn. Cháu Thảo học xong đại học, lấy chồng, sinh được một con trai, đặt tên là Hữu. Hè vừa rồi, tôi và mẹ con cháu Thảo về làng. Buổi chiều, chị Ngàn làm cơm, anh Thắng chọn lúa giống, chúng tôi dắt nhau ra bến làng. Sông Nghèn mùa nước ròng, đục màu sữa. Mùi mùa màng ngộn ngốt. Cháu Thảo nói: "Làng quê vẫn nóng. Ước chi có quả bần chín". Tôi buồn, bảo: "Bờ sông trống trơ thế kia!" Thằng Hữu hỏi: "Quả bần là gì hở mẹ?" Cháu Thảo nói: "Hỏi chú Nghĩa ấy". Tôi nói: "Lúc nào lớn cháu mới biết...".
Mùa gặt 1995
Đ.B